Chia sẻ về sự khởi sắc của giai đoạn này, Chủ tịch UBND xã Phù Đổng Trần Xuân Tĩnh cho biết: "Nhờ đi đúng hướng, 3 ngành nghề mũi nhọn trên đã phát huy hiệu quả kinh tế, đặc biệt là nghề trồng hoa, cây cảnh. Toàn xã có 420 hộ gia đình trồng hoa, cây cảnh, trong
Stafish land chuyên Tour Rạch Vẹm Phú Quốc: câu cá, câu mực, bắn cá, chụp ảnh flycam cùng sao biển, phao sup, dịch vụ xe đưa đón tại khách sạn, thực đơn phong phú. ⦿ Địa chỉ: Phú Quốc, Việt Nam Hotline: 033 999 5038 (có zalo) Email: starfishland1984@gmail.com
Frutti Di Mare tomato sauce, mix seafood, mozzarella cheese 340 Bánh pi-za nhân hải sản, xốt cà chua, phô mai mô-za-re-la Pizza Funghi , house smoked salmon, olive, tomato sauce, mozzarella cheese, oregano 360 Pizza cá hồi xông khói, nấm, xốt cà chua, phô-mai mô-za-re-la, kinh giới khô
Theo đó, giao bổ sung Kế hoạch đầu tư công nguồn vốn ngân sách Trung ương năm 2022 là 150 tỷ đồng cho dự án Xây dựng đường từ cầu Tam Lập đến Đồng Phú thuộc tuyến đường tạo lực Bắc Tân Uyên - Phú Giáo - Bàu Bàng. Chủ đầu tư: UBND huyện Phú Giáo. Căn cứ kế
Mua [Mã BMLT100 giảm đến 100K đơn 499K] Giày Lười Nam Da Bò SUNPOLO Đen Nâu - SU3028 giá tốt. Mua hàng qua mạng uy tín, tiện lợi. Shopee đảm bảo nhận hàng, hoặc được hoàn lại tiền Giao Hàng Miễn Phí. XEM NGAY!
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Trong bài hát Ra Giêng Anh Cưới Em của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ, từng được Mạnh Đình và Như Quỳnh trình bày thành công, có đoạn như sau “Ngộ kỳ thời, con kiến mới leo dây Nam mô di bố phù Hữu duyên mà thiên lý ngộ Nam mô di bố phù Gặp mặt nhau đây, chốn nầy hò hẹn thủy chung sắt son. Nam mô di bố phạ” Nghe bài hát Ra Giêng Anh Cưới Em “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ” là gì? Đây là một lời giao duyên của đôi trai gái Nam Kỳ luc tỉnh xưa. Chàng và nàng gặp nhau rất là tình cờ rồi nhớ nhau, đính ước nhau ra giêng sẽ cưới. “Ngộ kỳ thời” là gì? Kỳ ngộ 奇遇 là gặp gỡ đặc biệt. Thời 時 là lúc, thời gian. Thư tịch xưa có “Duyên kỳ ngộ” là nó đây. “Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng Khác nào như thể phượng hoàng gặp nhau Tiện đây ăn một miếng trầu Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là? Xin anh quá bước lại nhà Trước là trò chuyện sau là nghỉ chân” Ca dao “Ngộ kỳ thời” là chàng trai nói về thời điểm cái duyên khi gặp gỡ cô gái. “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ”là gì? “Nam mô” là một câu “nguyện cầu” trong Phật giáo Di có 72 chữ – nghĩa khác nhau, chữ “di” ở đây có nghĩa là “tràn đầy” Bố 布 là ban ra, cho khắp, Phật có chữ “bố thí”, là cho khắp, cho hết. Phù 扶 là giúp đỡ. Phù hộ hay phò hộ độ trì là một thuật ngữ trong Phật. “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ” như nhau, “phù” hay “phạ” là xuống âm theo nhạc. Nguyên câu này là anh chàng “cua” được gái tâm đầu ý hợp, thành ra ảnh cảm tạ trời đất, cầu xin được đem đến phúc lành cho hai người thương nhau. Nguồn Saigon trong tim tôi
Noi Gương ịa Tạng Vương Bồ Tát ịa Tạng Vương Bồ Tát có nguyện lực lớn nhất. Ngài nói rằng “ịa ngục vị không, thệ bất thành Phật, Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề.” Có nghĩa là địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng bồ-đề. Tinh thần nầy thật là từ bi. Bồ-tát đối với chúng sanh chúng ta rất là quan tâm lo lắng vô cùng, không có gì hình dung được. Phàm đối với tín đồ Phật Giáo, nổ lực tu hành thì ịa Tạng Vương Bồ Tát có thể trong lúc chúng ta thiền định hoặc chiêm bao mà hiện thân thuyết pháp. Tiếc thay chúng ta không hiểu dụng tâm của Bồ-tát, và cô phụ lòng từ bi của Ngài, thật là có lỗi với Ngài. Song le Bồ-tát cũng không giận dỗi, Ngài tha thứ cho sự si mê của chúng sanh, rồi vẫn không ngừng phổ độ chúng sanh. Khi nào độ hết chúng sanh thì Ngài mới thành Phật. Những việc Bồ-tát làm đều hướng về sự chân thật. Tuyệt đối Ngài không có ý hư ngụy giả dối, dù nhỏ như một sợi tơ, thuần túy là để cứu độ chúng sanh được thoát khổ và an lạc. Hiện nay chúng ta đang cử hành ịa Tạng Thất, ai có chơn tâm thì người ấy sẽ có cảm ứng, ai có thành ý thì người đó sẽ có thọ dụng. Sự thọ dụng nầy không phải là đắc được thần thông diệu dụng, mà là tâm mình được thanh tịnh, hết vọng tưởng. Khi vọng tưởng hết thì mình sẽ có cảnh giới cảm ứng đạo giao hiện tiền. Có người nói “Bình an là cảm ứng; biết lỗi lầm cũng là cảm ứng; so với lúc xưa tôi hiểu biết rõ ràng hơn, đó cũng là cảm ứng; so với trước kia tôi siêng năng nổ lực hơn, đó cũng là cảm ứng.” Nói như vậy cũng không sai, chung chung là như vậy. Bắt Chước Tinh Thần Bồ Tát ịa Tạng Thế nào gọi là Bồ Tát ịa Tạng? Vị Bồ-tát này cũng như đại địa, chứa hết vạn vật. Hết thảy vạn vật do đất mà sanh ra, nương đất mà lớn lên. Bất kể chúng sanh hữu tình hay vô tình, không thể rời khỏi đại địa mà tồn tại được, từ đó mà suy ra con người chúng ta mỗi một lần thở ra, thở vào, một cử một động, một lời nói một hành động, từng giờ từng khắc, đều sinh hoạt ở trên pháp thân của Bồ Tát ịa Tạng, chẳng qua chính chúng ta không hay biết đó mà thôi. Như con kiến càng bò trên con thuyền, nó không biết tới con thuyền. Con thuyền trôi nổi trên biển, ghé khắp mọi nơi, nhưng con kiến càng đâu có biết thuyền là cái gì? Thuyền đi tới đâu? Hoàn toàn không biết gì cả. Lý do tại sao vậy? Bởi thuyền thì quá lớn, kiến thì quá nhỏ. Chúng ta sinh tồn trên pháp thân của Bồ Tát ịa Tạng cũng cùng một ý nghĩa như vậy. Chúng ta sống trên quả địa cầu, không nương vào một chỗ nào trong không gian cả. ịa cầu do phong luân nhiếp trì, theo quy luật tự nhiên mà vận hành bất tuyệt trong quỹ đạo. Trong hư không, địa cầu phiêu diêu xoay chuyển, rồi cuối cùng nó đi tới đâu? Sự hiểu biết của các nhà Thiên văn học bất quá chỉ là danh từ mà thôi, rốt cuộc như thế nào họ cũng chẳng biết. Chuyện huyền bí của trời đất chẳng ai hiểu rõ một cách chân chánh. Biết được thực sự bí mật của vũ trụ họa chăng chỉ có các bậc thánh nhân đã chứng quả. Chúng ta là kẻ phàm phu tục tử không thể hiểu hết, ý nghĩa của nó là chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta đều là hạng hồ đồ ăn uống tạp loạn. Chúng ta sinh ra đời, từ thiếu niên lên tráng niên, từ tráng niên đến tuổi già, từ tuổi già đến chết, đó là con đường mà người đời trải qua, không ai có thể thoát ra ngoài định luật này. Trong cuộc sống như vậy, có người thì gặp rất nhiều khổ nạn – nghiệp chướng nặng – lãnh tận cùng sự khổ đau, rồi từ đó nhận thấy thân tâm tính mạng tựa hư ảo, sanh ra những tư tưởng yếm thế, coi cuộc đời chẳng còn hứng thú gì nữa. Có người xuất thân trong gia đình giầu sang – nghiệp chướng nhẹ – các thứ ăn mặc nơi ở đều thuộc giới thượng lưu, đời sống đầy đủ, được toại lòng xứng ý. Như người ta thường nói “muốn gió có gió, muốn mưa có mưa,” thậm chí muốn cả mặt trăng, cha mẹ cũng chiều lòng tìm cách đưa trăng xuống cho con. ời sống như vậy, trông vào thì tuồng như rất vui sướng, rất mỹ mãn. Kỳ thực, chẳng phải như vậy, mà chính là một đời hồ đồ chẳng điều gì được minh bạch, có thể nói là “túy sinh mộng tử,” sống say chết mê. Không có được sự hiểu biết chân chánh, tỷ dụ như vì sao ta đến thế giới này? ến để làm gì? ến để ăn uống chăng? ể mặc áo quần chăng? Hoặc giả đến để lừa gạt người? ến để hưởng thụ? ó là những điều mà thế gian mê mờ, không ai có thể phá được sự chấp mê đó. Chẳng riêng gì số người tại gia không phá được cái cửa mê này, mà đối với giới xuất gia cũng còn bị hãm trong vòng mê hoặc. Danh không buông được, lợi không bỏ được, chỗ nào cũng chạy theo duyên, chỗ nào cũng vướng mắc, thật là đáng thương vô cùng. Những người xuất gia phải nên có ý nghĩ, tại sao ta xuất gia? Bởi vì ta đã coi nhẹ hết thảy mọi thứ trên thế gian này, chẳng chấp các pháp thế gian, do đó mới xuất gia tu đạo đặng giải quyết vấn đề sanh tử. Người xuất gia phải tha thiết với vấn đề sanh tử, phát tâm Bồ-đề, chớ không thể hồ đồ chờ chết, như người ta nói “Một ngày làm sư, một ngày đánh chuông.” Với một tâm lý đó xuất gia, đối với vấn đề sanh tử quả là không nắm vững được tí nào. Chúng ta vào thất ịa Tạng, nên học hỏi tinh thần cứu độ chúng sanh của Bồ Tát ịa Tạng. Trong thời quá khứ, Bồ-tát từng phát mười tám lời nguyện lớn, nguyện chúng sanh thoát ly biển khổ, tới bờ an lạc. Ngài nói rằng “ịa ngục chưa trống, nguyện chẳng thành Phật,” và “ộ hết chúng sanh, mới chứng Bồ-đề.” Ngài lại nói “Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục.” Thật là những lời nguyện vĩ đại! Các vị phải nên bắt chước pháp của Bồ-tát, học hỏi tinh thần cứu người quên mình. Bồ Tát ịa Tạng nay vẫn còn trong địa ngục chịu khổ để thuyết pháp cho các chúng sanh. Chúng ta cùng ở trong pháp thân của Ngài ịa Tạng, lại cùng là người xuất gia, cùng với Ngài vốn là đồng chí đồng đạo trong việc quảng độ chúng sanh. “ặt mình trong chốn nước sôi lửa bỏng, cứu chúng sanh tới bờ mát mẻ” chính là bổn phận của người xuất gia. ược như vậy không uổng một đời xuất gia, hy vọng tất cả cố gắng! Người xuất gia không thể có tâm tham, phải quét trừ cho sạch tâm này, nếu không sẽ không đủ tư cách làm người xuất gia. Nếu còn tham cái này, tham cái kia, cái gì cũng tham, càng nhiều càng tốt, thậm chí vơ vào hết mọi thứ rác rưởi để tích trữ lại, như vậy quả là đáng thương đến cực điểm vậy! Niệm danh hiệu của Bồ Tát ịa Tạng thì chúng ta phải niệm cho thật rõ ràng, để Bồ-tát hiểu rõ tâm ý của chúng ta. Tại sao chúng ta niệm Bồ Tát ịa Tạng? Mục đích của chúng ta là khiến Bồ-tát sau khi nghe tiếng chúng ta niệm, Ngài biết rõ ý muốn của chúng ta để phát tâm từ bi, cho chúng ta được thỏa mãn tâm ý. Năm nay chính là năm đầu của thời kỳ “Cửu tinh liên châu,” tượng trưng cho sự hung hiểm. Chúng ta không cần biết có hung hiểm hay không hung hiểm, chỉ biết là chúng ta một tâm kiền thành niệm “Nam-mô ịa Tạng Vương Bồ-tát,” nguyện cầu tai họa lớn của thế giới đổi thành tai họa nhỏ, nếu là tai họa nhỏ thì biến thành tiêu tan. Bởi vậy chúng ta chỉ một lòng khẩn thiết, vì toàn thể nhân loại trên thế giới nguyện cầu hòa bình, hạnh phúc, đó chính là mục đích chúng ta vào thất ịa Tạng. ây chính là quảng đại tâm, vô lượng tâm mà kẻ xuất gia ai cũng phải ghi tạc trong lòng, coi chúng sanh như người thân của mình, giống như câu người ta nói “Người chết đuối, ta chết đuối, người đói ta đói,” phải phát tâm Bồ-tát, tự lợi lợi tha,tự giác giác tha, tự độ độ tha. Bởi vậy trong thời gian vào thất của pháp hội Bồ Tát ịa Tạng, chúng ta thành tâm chừng nào thì sẽ tốt chừng ấy, chúng ta đem hết thành tâm ấy niệm “Nam mô ịa Tạng Vương Bồ-tát.” Miệng chúng ta hết sức thành kính niệm Bồ Tát ịa Tạng, vậy là bánh xe của sáu nẻo luân hồi ngừng xoay. Không biết bao nhiêu là chúng sanh nhờ cơ hội này mà có thể ra khỏi cảnh luân hồi thoát ly khổ ách. Có thể nói rằng niệm danh hiệu Bồ Tát ịa Tạng là một công việc thần diệu, một công đức chẳng thể nghĩ bàn, do đó chúng ta không nên niệm trong sự mưu đồ, trong sự đặt giá, không phải vì sự trả ơn của chúng sanh mà niệm, tóm lại chúng ta niệm vì lòng tình nguyện. Bởi các lý do trên đạo tràng của chúng ta đột nhiên cử hành thất ịa Tạng, chẳng báo trước gì, cũng không tuyên bố gì. Trong số trú tại Vạn Phật Thánh Thành mà cũng có người không hay biết. Cái đó chính vì cơ duyên, cơ duyên hội đủ nên mới cử hành thất ịa Tạng. Thất ịa Tạng kết thúc thì tiếp theo là thất Quán Âm ngày 19 tháng 2 âm lịch, để cầu cho hòa bình thế giới, xin tất cả mọi người cố gắng đến niệm “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Có câu “chúng chí thành thành,” tức là góp ý chí – của số đông – sẽ tạo thành thành trì, tất cả cùng một lòng niệm, gắng sức niệm, hết sức thực tâm niệm, tức có cảm ứng, như câu “cảm ứng đạo giao” vậy. Cử hành thất ịa Tạng hay Quán Âm, chúng ta chỉ cần không có lòng riêng tư, tự lợi, không tranh, không tham, không cầu, mà thực sự chỉ vì hạnh phúc của chúng sanh trên thế giới. Tại Vạn Phật Bảo iện của Vạn Phật Thánh Thành, từ ngày 7 đến ngày 12 tháng 3 năm 1982
“Nam Mô A Di Đà Phật” là câu niệm Phật hiệu phổ biến nhất, được sử dụng nhiều nhất, xuất hiện khắp nơi trong cuộc sống, phim ảnh, truyền hình, mạng internet, đặc biệt là trong đi lễ đầu năm. Vậy vào đình, đền, miếu, phủ lễ bái thánh, thần, hay ở nhà lễ tổ tiên khấn 'Nam Mô A Di Đà Phật' có đúng? >>Ý nghĩa thâm thúy của bốn chữ A Di Đà Phật Nam Mô A Di Đà Phật - Câu cửa miệng người đi lễ Từ xa xưa, người Việt nói chung và người theo đạo Phật nói riêng thường xuất hành ngày đầu Xuân bằng việc đi lễ chùa, cầu sức khỏe, bình an cho gia đình trong một năm mới. Người Việt tin rằng, đi lễ chùa đầu năm không đơn giản chỉ là để ước nguyện, mà là khoảnh khắc để con người hòa mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao vất vả trong cuộc mưu sinh. Lễ xong, người đi lễ thường xin nhà chùa một thứ gì đó về làm lộc đầu năm như là gạo, muối, diêm… Tết cũng là lúc người dân chú trọng vô cùng chuyện cúng lễ, ngưỡng vọng trời đất, thần Phật, tổ tiên, cầu cho một năm mới nhiều may mắn. Phật A Di Đà tiếng Phạn là Amitābha là vị Phật có danh hiệu là Vô Lượng Phật, Vô Lượng Quang Phật, Vô Lượng Thọ Phật, là một trong các vị Phật quan trọng nhất trong Phật giáo. Theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đền, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu. Các vị Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam. Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi… 'Nam Mô A Di Đà Phật' được gọi là Lục tự Hồng danh - Danh lớn 6 chữ có nghĩa là gì? Theo các tài liệu Phật giáo, Nam Mô ở đây có 6 nghĩa kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. Trong thực tế, hầu hết người dân Việt đến đền, đình, chùa, miếu, phủ đều bắt đầu bài khấn bằng một câu là “Nam mô A Di Đà Phật”. Kể cả những người “sành” đi đình, miếu, phủ cũng khấn vậy. Thậm chí khi khấn tổ tiên ở nhà, khấn lễ vào các dịp tuần tiết, dù không theo đạo Phật, người dân cũng khấn 'Nam Mô A Di Đà Phật'. Tuy nhiên câu khấn này thực chất chỉ dành để khấn ở chùa. 'Nam Mô A Di Đà Phật' được gọi là Lục tự Hồng danh - Danh lớn 6 chữ có nghĩa là gì? Theo các tài liệu Phật giáo, Nam Mô ở đây có 6 nghĩa kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng. A Có nghĩa là Vô, Không Di Đà Nghĩa là lượng Phật Người Giác ngộ Do đó, Nam Mô A Di Đà Phật có nghĩa là Kính lễ đấng Giác ngộ vô lượng hoặc cũng có nghĩa là Con quay về nương tựa vào đấng Giác ngộ vô lượng. Kỳ thực Nam Mô A Di Đà Phật còn biểu thị sự tôn kính đối với Phật, Bồ Tát, như trong câu “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Mức độ thông dụng trong sinh hoạt hàng ngày chứng tỏ lòng tín niệm của Phật tử thể hiện ở câu chào khi gặp nhau gồm có bốn chữ A-di-đà Phật! Phật A Di Đà tiếng Phạn là Amitābha là vị Phật có danh hiệu là Vô Lượng Phật, Vô Lượng Quang Phật, Vô Lượng Thọ Phật, là một trong các vị Phật quan trọng nhất trong Phật giáo. Phật A Di Đà là giáo chủ của Thế giới Tây phương Cực Lạc, là thế giới mà Ngài kiến lập. Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ của Thế giới Ta Bà, tức là thế giới có chúng ta đang sinh sống. Phật Giáo là một tư tưởng triết học lớn, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người khởi xướng. Chính vì vậy hình tượng Đức Phật là đại diện Phật giáo chính là đại diện cho những tư tưởng triết học và giáo lý mà bản thân Phật giáo muốn đem đến cho người dân. Đó là những khuyên răn về việc hướng thiện, về luật nhân quả tức là tự mình làm việc thiện sẽ nhận lại cho mình những điều tốt đẹp. Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên theo đường biển. Những vết tích đầu tiên được được ghi nhận với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Đạo Phật có nhiều tông phái, trong đó các tông phái có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam gồm Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Nam nhiên, chỉ những Phật tử theo Tịnh độ tông tụng Nam Mô A Di Đà Phật Kính lễ đấng Giác ngộ vô lượng. Họ tin rằng, trong Thập Lục Quán Kinh Phật dạy nếu chúng sinh nào niệm một lần danh hiệu của Phật A Di Đà sẽ tiêu được 8 muôn ức kiếp tội nặng. Các phái Phật giáo khác như Thiền tông, Phật giáo nguyên thủy không tụng niệm câu này. Dù vậy, sáu chữ Hồng Danh xưng niệm Phật hiệu đã trở thành câu niệm Phật quen thuộc và phổ biến rất rộng rãi trong giới Phật tử xuất gia cũng như cư sĩ tại gia. Người Việt Nam theo Phật giáo từ lâu nên văn hóa Phật giáo thấm đẫm hơn cả. Mức độ thông dụng trong sinh hoạt hàng ngày chứng tỏ lòng tín niệm của Phật tử thể hiện ở câu chào khi gặp nhau gồm có bốn chữ A-di-đà Phật! Từ đó, Nam Mô A Di Đà Phật được lưu truyền rộng rãi, có sức ảnh hưởng sâu rộng thành câu mở đầu và kết thúc các bài khấn của những người đi lễ, các tín chủ dù ở nhà, ở chùa, hay đình, đền, miếu, phủ... Vì sao người dân lễ thần, thánh, gia tiên cũng khấn Nam Mô A Di Đà Phật? Hiện nay, có nhiều sách giới thiệu các bài khấn nhưng tựu trung hai cuốn sách được sử dụng nhiều nhất là cuốn Văn khấn cổ truyền Việt Nam NXB Văn hóa Thông tin xuất bản do Hòa thượng Thích Thanh Duệ và Nguyễn Bích Hằng thẩm định, chỉnh lý, tuyển chọn. Trong sách này, các bài khấn đều có bắt đầu và kết thúc bằng Nam Mô A Di Đà Phật. Quyển sách thứ hai là Tập văn cúng gia tiên NXB Văn hoá Dân tộc ấn hành, trong quyển sách này không có sáu chữ Hồng Danh xưng niệm Phật hiệu. Chính vì hiểu sai nên dẫn đến những hành động chưa đúng thậm chí là sai lệch gây ra nhiều sự biến tướng, sai lệch trong các hoạt động văn hóa tâm linh. Người Việt Nam theo Phật giáo từ lâu nên văn hóa Phật giáo thấm đẫm hơn cả. Vì thế, khi khấn, người ta thường mở đầu bằng câu Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần và vái lạy hay “Lạy chín phương trời, lạy mười phương Phật”, sau đó là các vị thần linh sông núi, thành hoàng bản cảnh… rồi đến anh linh tiên hiền tiên liệt, tổ tiên các đời. Kết thúc lại bằng Nam Mô A Di Đà Phật 3 lần kèm vái lạy. Một số nhà nghiên cứu cho rằng việc lễ thần, thánh, gia tiên cũng khấn Nam Mô A Di Đà Phật là không đúng. Lý do câu Nam Mô A Di Đà Phật thành câu cửa miệng là vì Phật giáo ở Việt Nam bị hiểu sai. Do nhiều tác động của cuộc sống vật chất đặc biệt là sự kém hiểu biết một bộ phận người dân do chỉ đến với Phật giáo theo tư cách những người không nghiên cứu hay tu hành, cộng thêm tâm lí đám đông mới dẫn sự lệch lạc như vậy về quan niệm về Phật giáo. Chính vì hiểu sai nên dẫn đến những hành động chưa đúng thậm chí là sai lệch gây ra nhiều sự biến tướng, sai lệch trong các hoạt động văn hóa tâm linh. Việc 'dân dã hóa' Đức Phật được biểu hiện rất rõ. Ví dụ như việc thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo nhưng khi bắt đầu khấn nhiều người lại khấn câu đầu tiên là Nam Mô A Di Đà Phật. Đền, phủ, đình, miếu… không thờ Phật do đó câu nói Nam mô A di đà Phật hoàn toàn không phù hợp. Tín ngưỡng thờ Mẫu không phải là Phật giáo, nhưng khi nhiều người đến phủ Tây Hồ, phủ Dầy câu đầu tiên khấn cũng lại là Nam Mô A Di Đà Phật. Đền, phủ, đình, miếu… không thờ Phật do đó câu nói này hoàn toàn không phù hợp. Đền, phủ, đình, miếu… là những nơi thờ thần linh, thờ những người có công nên khi đứng trước ban thờ, người khấn trước tiên hãy tỏ lòng thành kính, sau đó mới khấn những ước muốn, tâm nguyện trong sáng. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo, là nơi tập trung sinh hoạt, tu hành và thuyết giảng đạo Phật của các nhà sư, tăng, ni. Mọi người kể cả tín đồ hay người không theo đạo đều có thể đến thăm viếng, nghe giảng kinh hay thực hành các nghi lễ Phật giáo. Ở một số nơi, chùa còn là nơi cất giữ xá lị và chôn cất các vị đại sư. Đình là nơi thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi hội họp, bàn việc của dân làng. Đình được coi là trung tâm sinh hoạt văn hóa gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc trưng của nền văn minh lúa nước Việt Nam. Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một nghề ông tổ của nghề. Dưới các triều vua thường có sắc phong cho Thành hoàng, vì hầu hết Thành hoàng đều có công với nước. Dân làng, hay phường hội đi lập nghiệp nơi khác cũng xây miếu, đền thờ Thành hoàng quê gốc của mình tại nơi ở mới. Đền là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị Thánh hoặc những nhân vật lịch sử được tôn sùng như thần thánh. Ở Việt Nam, phổ biến nhất là các đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của các anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương được dựng theo truyền thuyết dân gian. Các đền nổi tiếng có thể kể đến ở nước ta như Đền Hùng, đền Kiếp Bạc, đền Sóc, đền Trần… thờ các anh hùng dân tộc. Đền Voi Phục, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…thờ các vị thánh theo truyền thuyết dân gian. 4. Miếu Miếu là một dạng di tích văn hóa trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có quy mô nhỏ hơn đền. Đối tượng được thờ ở miếu rất đa dạng, thể hiện ở tên gọi của miếu – tên gọi theo đối tượng được thờ thường phiếm chỉ và tượng trưng. Ví dụ miếu Cô, miếu Cậu, miếu thờ thần núi gọi chung là miếu Sơn thần, miếu thờ thần nước gọi là miếu Hà Bá hoặc miếu Thủy thần. Miếu thờ thần đất gọi là miếu thổ thần hoặc thần Hậu thổ. Miếu thường được xây trên gò cao, nơi sườn núi, bờ sông hoặc đầu làng, cuối làng, những nơi yên tĩnh để quỷ thần có thể an vị, không bị mọi sự ồn ào của đời sống dân sinh. Ở một số nơi, trong các ngày giỗ thần như ngày sinh, ngày hóa nhân thần, ngày hiện hóa thiên thần làng mở tế lễ, mở hội, nghinh rước thần từ miếu về đình. Tế lễ xong, lại rước thần về miếu yên vị. Miếu nhỏ còn được gọi là Miễu cách gọi của người miền Nam. Phủ là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam. Một số nơi thờ tự ở Thanh Hóa gọi đền là phủ. Có thể hiểu Phủ là nơi thờ tự Thánh Mẫu khá sầm uất, mang tính chất trung tâm của cả một vùng lớn, vượt ra ngoài phạm vi địa phương, thu hút tín đồ khắp nơi đến hành hương tương tự như chốn Tổ của sơn môn đạo Phật. Ngôi phủ sớm nhất còn lại hiện biết là điện thờ các thần vũ nhân ở chùa Bút Tháp, có niên đại vào giữa thế kỷ XVII.
Một anh hỏi ,nghe trong bài “Ra giêng anh cưới em” có những câu “Ngộ kỳ thời, con kiến mới leo dây Nam mô di bố phù Hữu duyên mà thiên lý ngộ Nam mô di bố phù Gặp mặt nhau đây. chốn nầy hò hẹn thủy chung sắt son. Nam mô di bố phạ” “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ”là gì? Đây là một lời giao duyên của đôi trai gái Nam Kỳ luc tỉnh xưa Chàng và nàng gặp nhau rất là tình cờ rồi nhớ nhau,đính ước nhau ra giêng sẽ cưới “Ngộ kỳ thời” là gì? Kỳ ngộ 奇遇 là gặp gỡ đặc biệt Thời 時là lúc,thời gian Thư tịch xưa có “Duyên kỳ ngộ” là nó đây “Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng Khác nào như thể phượng hoàng gặp nhau Tiện đây ăn một miếng trầu Hỏi thăm quê quán ở đâu chăng là? Xin anh quá bước lại nhà Trước là trò chuyện sau là nghỉ chân” Ca dao Xin nhắc tới một bài nhạc tổ của đờn ca tài tử Nam Kỳ,bài “Duyên kỳ ngộ” “Ngộ kỳ thời”là chàng trai nói về thời điểm cái duyên khi gặp gỡ cô gái “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ”là gì? Nam mô là một câu “nguyện cầu” trong Phật giáo Di có 72 chữ -nghĩa khác nhau ,chữ di ở đây có nghĩa 彌 là tràn đầy Bố 布là ban ra, cho khắp,Phật có chữ “bố thí” 布施 cho khắp, cho hết Phù 扶 là giúp hộ hay phò hộ độ trì là một thuật ngữ trong Phật “Nam mô di bố phù” và “Nam mô di bố phạ”như nhau,phù hay phạ là xuống âm theo nhạc Nguyên câu này là anh chàng “cua” được gái tâm đầu ý hợp,thành ra ảnh cảm tạ trời đất ,cầu xin được đem đến phúc lành cho hai người thương nhau “Nam mô di bố phù” là một câu Nho học,theo phái Nho gia của câu “Nam Mô A Di Đà Phật”南 無 阿 彌 陀 佛 Nam Mô A Di Đà Phật là câu niệm trong tiếng Phạn नमो अमित बुद्ध Namo Amitàbha Buddha Ý nghĩa của 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phậtlà nghiêng mình thành kính đem thân tâm qui ngưỡng Đức Phật A Di Đà A Di Đà là một phái Phật có sau khi Phật Thích Ca qua đời ,nó xuất hiện khoảng đầu công nguyên. Tín ngưỡng Amitābha được phát triển cùng với thời kỳ đầu của Phật giáo Đại Thừa khi truyền giáo vào Trung Hoa nên thông dụng ở bên Đại Thừa. Chỉ vậy thôi.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Trong Kinh “Niệm Phật Ba La Mật” do Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch từ Hán văn sang Việt văn, ở Phẩm thứ ba “Niệm Phật công đức”, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát đã vì Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hi và đại chúng diễn thuyết, lược nói 17 ý nghĩa danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, như sau Này Phật tử hãy chăm chú lắng nghe, tôi sẽ giải thích tường tận. Danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật vốn đầy đủ vô lượng vô biên hằng hà sa công đức, vô lượng vô biên hằng hà sa ý nghĩa, vô lượng vô biên hằng hà sa lực dụng, cứu cánh, cảnh giới, giác tánh… dẫu trăm ngàn muôn ức Na do tha vi trần đại kiếp, cũng không thể diễn nói hết được. Nay vì chúng sanh nơi thời kỳ Chánh pháp cuối cùng, mà tôi sẽ lược nói, để chúng sanh thu hoạch nhiều lợi ích”. Này Phật tử, Nam Mô A Di Đà Phật nghĩa là gì? Nam Mô là giới luật, A Di Đà là thiền định, Phật là trí tuệ. * Này Phật tử, danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật có vô lượng vô biên bất khả thuyết ý nghĩa thâm mật vi diệu như thế dẫu ba đời mười phương chư Phật diễn nói cũng không cùng tận. Đọc đến nghĩa thứ ba, đoạn có đánh dấu *, đệ tử bỗng nhiên chợt nhớ. Lúc Cha Mẹ của đệ tử còn tại thế, hằng đêm tại gia, sau thời công phu Tịnh độ có tụng một số bài kệ sám nói về ý nghĩa của danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Đệ tử còn nhớ, thuộc và đọc tụng hằng đêm sau thời công phu Tịnh Độ. Nhân dịp VU LAN, mùa Báo Hiếu, để tưởng nhớ công ơn Cha Mẹ, đệ tử xin chép lại các bài kệ sám tụng ý nghĩa “HỒNG DANH NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” dâng tặng chư thiện tín hữu duyên cùng thưởng thức 1/ NIỆM PHẬT TRÌ NGŨ GIỚI NAM thứ nhất lòng nhơn bất SÁT 1 Khắp chúng sanh bác ái từ bi. Chữ MÔ bỏ hết ái si Chớ ham DÂM DỤC mà suy đọa hoài. A tam thứ bỏ ngoài THÂU ĐẠO 2 Vật của người chớ háo, chớ ham. Chữ DI nên dứt nói xàm 3 Bốn điều VỌNG NGỮ chớ găm vào lòng. ĐÀ đệ ngũ sáng trong soi trí Tránh MA MEN 4 thì ý bình an. Quy y Tam Bảo vẹn toàn Nhớ lời PHẬT dạy rõ ràng sáu âm. Kẻ học đạo chuyên tâm nghe rõ Cứ xuất gia thì tỏ ngộ ngay Ráng lần sáu chữ từ nay Xét suy cạn lý ngộ rày chơn tâm. Ghi chú 1 SÁT Sát sanh. 2 THÂU ĐẠO Trộm cắp. 3 Nói xàm nói điều vô nghĩa. 4 MA MEN Rượu. Ngũ giới là năm giới cấm căn bản của người đệ tử xuất gia và tại gia thọ trì sau khi đã quy y Tam Bảo. 2/ NIỆM PHẬT THANH TỊNH LỤC CĂN NAM về NHÃN, SẮC trần đều diệt Chớ đê mê mài miệt trần ai. Chữ MÔ thuộc NHĨ, THINH hay Phải đều dập tắt thanh bai bước đường. A là TỶ mùi HƯƠNG xa lánh Thích làm chi bịn rịn ái tình. Chữ DI là THIỆT khiết tinh VỊ trần chẳng mến sóng tình khỏi chao. ĐÀ sáng suốt chiếu vào THÂN uẩn Đồ vô thường đừng bận XÚC duyên. PHẬT khuyên Ý niệm chánh chuyên PHÁP mầu giả dối chẳng bền chẳng lâu. Này Phật tử thẩm sâu mấy chữ Cứu độ người sanh tử luân hồi. Cố công trì niệm trau dồi An nhiên tự, tại khỏi thời trầm luân. Ghi chú Lục căn Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Lục trần Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. 3. NIỆM PHẬT HÀNH LỤC ĐỘ NAM cố gắng đem ra BỐ THÍ Pháp lẫn tài, vô úy chớ quên Đức từ mở rộng khắp miền Nhỏ như hột cát không riêng chút lòng. MÔ tịnh hạnh người hòng TRÌ GIỚI Chớ ố hoen mà phải hư hèn Lòng bi nào kể xuống lên Một câu thanh bạch cũng nên đạo mầu. A vô lượng nhớ câu NHẪN NHỤC Hãy nhu hòa un đúc chơn nguyên Không màn những chuyện não phiền Đớn đau, tủi hổ, dữ, hiền cần chi. DI tiến bước hằng khi TINH TẤN Chớ kêu nài mõi cẳng mệt hơi Khá xem các Phật rạng ngời Danh truyền cổ cũng thời tịnh chuyên. ĐÀ quang đảng soi miền CHÁNH ĐỊNH Vẫn an nhiên thanh tịnh bình thường Keo sơn gắn bó luôn luôn Một mai giác ngộ mười phương tỏ tường. PHẬT toàn giác khai hương BÁT NHÃ Ánh nguyệt quang buông tỏa chín tầng Rõ thông diệu lý siêu quần Hoàn toàn thiện ý tâm trưng Niết Bàn Hành Lục Độ lo toan bữa bữa Chớ than van kéo nhựa kéo giây Hiểu rằng cõi Phật gần đây Di Đà, Thế Chí với rày Quán Âm. Ghi chú Lục độ vạn hạnh của Bồ Tát đạo Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định và Trí tuệ. Nam Mô A Di Đà Phật. Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Sau cùng, xin mượn bài kệ thi của Ngài Huỳnh Phú Sổ, để kết thúc bài này NAM chỉ về tâm phải tịnh thanh MÔ không dục lợi chẳng cầu danh A trừ dâm dục nuôi tinh đủ DI dứt đắn đo giữ báu lành ĐÀ ấy kim thân sanh bất diệt PHẬT là xá lợi hiệu vô sanh LỤC ra chép để người người biết TỰ lấy mình tu ắt sẽ thành. Nguyện đem công đức này Hướng về khắp tất cả Đệ tử và chúng sanh Đồng sanh cõi Cực Lạc. 25/10/2008 - Posted by f TỊNH ĐỘ HỌC
nam mo di bo phu