Thành phần của GHPGVN gồm các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni và Cư sĩ thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam đã hợp nhất, hình thành GHPGVN và chấp nhận Hiến chương của GHPGVN. Thành phần Tăng, Ni trong GHPGVN gồm 2 thành phần: giáo phẩm và đại chúng. Hai pháp danh sắc này tương quan tương liên với nhau. Danh phải nương gá vào sắc, sắc phải nhờ danh mới hiện hữu để cấu tạo thành một sanh mạng. Chúng luôn luôn nương nhau, không từng lìa nhau bao giờ. Vua hỏi: - Đại đức đã nói đến danh sắc, vậy cái gì Đạo hữu trước đây nhưng có gặp được cái gì kỳ quái nhân vật? Có lẽ là ta Mộ Dung gia tiền bối cũng không nhất định." "Ngạch, như thế có, trước đó tại ven đường gặp phải một cái lão khất cái, nhìn hắn quả thực đáng thương, cho nên thưởng hắn một cái bánh Nếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 70 năm (1944-2014). Quảng thời gian này là quá ngắn so với trường kỳ lịch sử Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Nhằm nâng cao đời sống phạm hạnh, thắp sáng lý tưởng giải thoát và phụng sự đạo pháp cho Tăng Ni trẻ, Hệ phái Khất sĩ khai mạc khóa "Bồi dưỡng đạo hạnh lần thứ 7" tại Pháp viện Minh Đăng Quang (TP.Thủ Đức, TP.HCM), vào tối 17-7. Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd Hỗ Trợ Nợ Xấu. Trong kiến trúc Phật giáo Việt Nam, kiến trúc cơ sở Phật giáo thuộc hệ phái Khất sĩ có nét đặc trưng, độc đáo, mang tính cách riêng. Những cơ sở thờ tự của hệ phái Khất sĩ đều được gọi là Tịnh xá. Tịnh xá được xây dựng theo quy cách đã được quy định trong bộ Kinh Chơn Lý. Bất cứ tịnh xá nào cũng được kiến trúc theo hình bát giác 8 cạnh, tượng trưng Bát chính đạo. Tịnh xá phải tám thước, vuông bốn phía. Trong Tịnh xá có tháp thờ pháp của chư Phật quá khứ. Tháp phải 13 tầng, “vì đức Như Lai là ngôi vị thứ 13 của chúng sanh tiến lên từ nấc” Kinh Chơn lý, PL. 2515, tr. 144. Tháp phải mở trống 4 cửa số 4 tượng trưng cho Tứ diệu đế. Nơi đó chỉ để kinh sách hoặc cốt tượng Phật. Tháp cao 3 mét, chân tháp rộng, vuông, cạnh 1,8 mét. Tịnh xá cũng có nhà giảng thuyết pháp, góc vuông 16 mét. Có nhà độ cơm nghỉ mát, ngang 8 mét, dài 16 mét. Ba ngôi tịnh xá, nhà giảng thuyết pháp, nhà độ cơm nghỉ mát được gọi chung là nhà Tam bảo. Khuôn viên cũng có nhà thờ riêng cho cư gia, ngang 4 mét, dài 8 mét. Phía trước bên trái tịnh xá còn có nhà thiện nam, bên mặt có nhà tín nữ. Phía sau, bên mặt có cốc nghỉ chân cho ni lưu, bên trái có cốc của tăng, có hồ sen, núi đất, có ao rạch hoặc suối, cây cáo, bóng mát, gió thanh… xa nhà bá tánh trăm thước… Mặt tiền Tam bảo hướng về phía tây. Chung quanh có hàng rào cao 2 mét. Theo quy định, sáng 7 giờ mở cửa tịnh xá và chiều 5 giờ đóng lại cho các sư tu tịnh. Trong tịnh xá thuộc hệ phái Khất sĩ, do quan niệm thờ phụng cần đơn giả, thanh tịnh nên trong tháp 13 tầng, duy nhất chỉ có tượng Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngoài ra còn có bàn thờ dành cho Tổ sư Minh Đăng Quang, người sáng lập hệ phái Khất sĩ. Trong tịnh xá cũng có bàn thờ chung, gọi lạ bàn Hội đồng, của Cửu Huyền Thất Tổ, để Phật tử đưa hình ảnh ông bà cha mẹ đã quá cố vào đặt thờ. Do quan niệm tất cả Phật tử đều cùng có chung một họ Phật, từ thờ tự một người đến thờ phụng cả họ, để có thể đến với sự thờ phụng chung cho cả chúng sinh. Kinh chủ yếu của hệ phái Khất sĩ là bộ kinh Chơn lý, một tập hợp gồm 70 quyển được in thành hai tập trọn bộ, dày 948 trang. Đây là những bài giảng của Tổ sư Minh Đăng Quang, trên tinh thần dung hợp hai hệ phái Bắc tông và Nam tông. Kinh đề cập đến quan niệm về vũ trụ, giáo lý Phật giáo, cách sống tu của người Khất sĩ, cách thờ phụng, các bài kinh Tam bảo, kệ tụng sám hối, kệ cầu nguyện hòa bình… Chân dung Tổ sư Minh Đăng Quang Ni sư Huỳnh Liên cũng biên soạn một số kinh như Kinh Di giáo, Từ Bi kinh, Kinh Vô ngã tướng, Kinh Pháp cú… Những bài kinh này được tập hợp lại thành quyển Tinh Hoa bí yếu Kinh chọn lọc. Ngoài ra ni sư cũng biên soạn Kinh Tam Bảo và Kinh Xưng tụng Tam Bảo. Đạo Phật Khất Sĩ chính thức ra đời vào năm 1947 trong vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, cụ thể là xuất phát tại Mỹ Tho, trong một môi trường ở đó các tôn giáo chính đã có cơ sở vững vàng, bên cạnh những hình thái tôn giáo khác cũng đang tích cực phổ biến giáo lý, thu hút tín đồ. Mặc dù xuất hiện khá muộn, nhưng Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam ĐPKSVN vẫn phát triển và hiện nay đã trở thành một hệ phái Phật giáo có tầm vóc không chỉ ở Việt Nam mà còn vươn ra có mặt ở hải ngoại. I. Sơ lược tiểu sử ngài Minh Đăng Quang Sáng lập Đạo Phật Khất Sĩ ở Việt Nam là ngài Minh Đăng Quang, được nguời đời sau tôn xưng là Tổ sư Minh Đăng Quang. Ngài có thế danh là Nguyễn Thành Đạt, sanh năm 1923 tại quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, con út của cụ Nguyễn Tồn Hiếu 1894-1968 và cụ bà Phạm Thị Tỵ tự Nhàn 1982-1924. Từ nhỏ, ngài đã sớm biết chuyên tâm niệm hương cúng Phật hàng ngày và ăn chay mỗi tháng mười ngày theo gương cha. Khi đi học, ngài lấy tên Lý Hườn. Tốt nghiệp bằng Sơ học của Pháp năm 13 tuổi, ngài không muốn học tiếp mà xin gia đình cho đi tu nhưng không được chấp thuận. Năm 1937, ngài tự ý rời nhà tìm thầy học đạo trên đất Campuchia. Ở đó, ngài được giới thiệu đến các chùa theo Phật giáo Nguyên thủy để học tiếng Khmer và đọc kinh Phật. Cuối năm 1941, ngài trở về Vĩnh Long rồi lên Sài Gòn làm việc. Ngài lập gia đình vào năm 1942, có được một người con gái, nhưng cả người bạn đời và con gái ngài đều bị bệnh và sớm qua đời. Vào năm 1943, ngài quyết chí lên vùng núi Thất Sơn ẩn tu. Trong năm 1944, ngài đến Mũi Nai ở Hà Tiên nhập định miên mật trong bảy ngày đêm và ngộ đạo tại nơi đây. II. Việc mở mang mối đạo khai sơn phá thạch Trong hai năm, từ 1944 đến 1946, ngài được một thiện nam thỉnh về ẩn tu tại chùa Linh Bửu ở làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho. Sau mùa an cư đầu tiên, ngài bắt đầu hướng dẫn các đệ tử hành đạo quanh vùng. Ngài thu nhận đệ tử rất chọn lọc. Trong năm 1947, ngài chỉ thu nhận bốn vị Tăng, sáu vị Ni và một chú điệu khoảng 10 tuổi. Từ năm 1948 trở đi, ngài thu nhận thêm nhiều người xuất gia; chư Tăng được ngài giáo huấn rất kỹ càng. Trong năm 1948, ngài hướng dẫn một đoàn khất sĩ du hành về Sài Gòn, tạo một dấu ấn nơi thủ phủ miền Nam lúc bấy giờ, rồi lại quay về hành đạo trong khu vực giữa hai nhánh sông Cửu Long, đẩy mạnh việc phát triển nền đạo. Để mở rộng việc truyền bá tư tưởng, ngài soạn bộ Chơn Lý gồm 69 tập, mở ra nhà in Pháp Ấn đặt tại Tịnh xá Ngọc Viên ở Vĩnh Long chuyên in các tập Chơn Lý do chính ngài sáng tác. III. Giáo lý của Đức Phật Thíchca trong ĐPKSVN Với phương châm “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, Tổ sư Minh Đăng Quang gìn giữ truyền thống mà Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã vạch. Ngài dung hợp mọi tinh hoa của Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông. Ngài đã thành tựu và lưu truyền cho hậu thế một dòng truyền thừa với ba pháp yếu quan trọng sau đây 1. Tinh thần viễn ly trong hạnh xuất gia; 2. Sự tinh tấn trong tu tập; 3. Tinh thần hoằng hóa độ sinh. Giáo pháp Khất Sĩ nêu cao việc quay về với cội nguồn tâm linh, quyết tâm thực hành Giới-Định-Tuệ. Đối với đời sống cộng đồng, người Khất sĩ cộng trú tu học trong những ngôi già-lam tịnh xá. Tổ sư nêu lên phương châm Nên tập sống chung tu học Cái SỐNG là phải sống chung; cái BIẾT là phải học chung, cái LINH là phải tu chung. Khi chọn Hoa sen và Ngọn đèn Chơn lý làm biểu tượng cho dòng pháp “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp – ĐPKSVN”, Tổ sư Minh đăng Quang đã bày tỏ ý hướng đem Chánh pháp thanh tịnh như hoa sen của chư Phật để soi đường dẫn lối cho người hữu duyên bằng ngọn đèn chơn lý. Bằng những hình ảnh ẩn dụ, trong tập Chơn lý “Trên Mặt Nước”, Tổ sư Minh Đăng Quang nói đến lá sen, hoa sen và gương sen đều có chân gốc trong bùn nhưng đã vươn lên khỏi mặt nước và không hề dính bùn. Bùn nặng nề, dơ bẩn, rã rời nên chìm xuống đáy, tượng trưng cho sự xấu ác tội lỗi của con người vị kỷ. Nước trôi chảy, tượng trưng cho xã hội thanh thoát tùy duyên. Sen vượt lên cao tượng trưng bậc xuất gia, người Khất sĩ… có hành động như lá sen, có lời nói như hoa sen, có tư tưởng như gương sen. Gốc sen còn ở trong bùn, tượng trưng người tu còn phải nương nhờ trần thế, xin ăn xin mặc để nuôi thân tu học, nhưng tâm trí đã vượt lên trên sự xấu ác. Sen nhờ bùn nuôi dưỡng, sen cũng trả ơn bằng cách hứng chịu nắng mưa sương gió che chở cho nước và đất trước những động chạm từ bên ngoài. Người tu cũng đền trả cho đời bằng sự hiền lương trong lời nói thuần hòa, việc làm hiền thiện, tư tưởng trong sạch; đóng góp vào việc tạo nên nền tảng đạo đức cho xã hội. Biểu tượng Hoa sen và Ngọn đèn Chơn lý chính là lý tưởng của Tổ sư về một quốc độ có một cuộc sống an vui thuần thiện của tất cả mọi người; trong đó người tu phải thể hiện một đời sống nghiêm tịnh thanh thoát, thắp lên ngọn đèn chơn lý phụng hiến cho đời. Tổ sư Minh Đăng Quang còn nêu lên một điều rất đặc biệt mà ít người lưu ý, rằng “Việt Nam đạo Phật không có phân thừa”. Chính vì thế, giáo pháp của ĐPKSVN thể hiện rõ tư tưởng Đại thừa trong khi xiển dương việc thực hành một phần công hạnh của Phật giáo Nguyên thủy. Khác với Phật giáo Nam tông, thay vì dùng Tam tịnh nhục, ĐPKSVN chủ trương ăn chay, mở rộng tinh thần từ bi và sử dụng kinh điển Đại thừa như kinh Kim cương, Hoa nghiêm, Bát-nhã, Pháp hoa, Địa Tạng… trong việc truyền bá giáo lý của Đức Phật. Xuất thân ở Nam Bộ, ngài Minh Đăng Quang có phương pháp truyền đạo phù hợp với tâm lý người Nam Bộ, thuyết giảng Phật pháp bằng những hình ảnh sống động, sử dụng ngôn từ dễ hiểu, đi thẳng vào lòng người. Tuy sử dụng ngôn ngữ bình dân, ngài vẫn có những lập luận sâu sắc, thể hiện một trình độ chứng ngộ cao vời, khiến ngay cả những vị trí thức lớn tuổi cũng tâm cảm đón nhận quy kính. IV. Những đóng góp đầu tiên cho Phật giáo Đồng bằng Sông Cửu Long 1. Hình thành đoàn Du Tăng Khất Sĩ đầu tiên Rằm tháng Bảy năm Mậu Tý 1948, Tổ sư Minh Đăng Quang thành lập đoàn Du Tăng Khất Sĩ đầu tiên, gồm có 21 vị sư, xuất phát từ Vĩnh Long đi hành đạo lên vùng Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn nay là và miền Đông Nam Bộ. Chuyến hành đạo này đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng người ở các nơi đoàn Du Tăng Khất Sĩ đi qua. Lần đầu tiên xuất hiện trong suốt hai ngàn năm lịch sử Phật giáo Việt Nam, đoàn Du Tăng Khất Sĩ là một đường lối hoằng pháp độc đáo của Tổ sư Minh Đăng Quang. Mô hình đoàn Du Tăng này cũng là một bản sao của đoàn Du Tăng thời Đức Phật. 2. Những ngôi tịnh xá đầu tiên Hình ảnh các vị Khất Sĩ khiêm cung đi xin ăn tu học đã khắc sâu vào lòng người dân niềm kính phục khiến họ quy ngưỡng. Từ đó, những ngôi tịnh xá hình bát giác lần lượt được dựng lên bởi các vị đệ tử tại gia của Tổ sư Minh Đăng Quang để các vị Khất Sĩ tạm trú hành đạo khắp các tỉnh thành Nam Bộ. Ngay trong năm 1947, ở thị xã Vĩnh Long, ngài cho dựng tại cầu Kinh Cụt ngôi tịnh xá đặt tên là Pháp Vân. Cũng trong tỉnh Vĩnh Long, ngài đã chứng minh cho việc xây dựng tịnh xá Trúc Viên, sau này đổi tên là Ngọc Thuận. Tính đến hết năm 1953, đã có tới hơn hai mươi ngôi tịnh xá, hoặc do chính Tổ sư Minh Đăng Quang đích thân sáng lập hay chứng minh việc xây dựng, hoặc được dựng lên theo chủ trương của các vị đại đệ tử của ngài ở nhiều tỉnh thành miền Nam, như Bình Dương, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long An, Tây Ninh, Sài Gòn, Trà Vinh, Mỹ Tho, Gia Định… Đặc biệt, có cả một ngôi tịnh xá đã được xây dựng tại Bình Thuận thuộc Nam Trung phần. Điều này cho thấy sự phát triển rất mạnh của ĐPKSVN ngay trong buổi đầu mở đạo. V. Tiếp tục đóng góp cho Phật giáo Đồng bằng Sông Cửu Long sau ngày Tổ sư vắng bóng 1. Sự vắng bóng của ngài Minh Đăng Quang Ngày rằm tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954, Tổ sư Minh Đăng Quang tập trung chúng Tăng về tịnh xá Ngọc Quang ở Sa Đéc để chỉ dạy việc tu tập. Sau đó, ngài lên đường viếng các tịnh xá ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ, ghé thăm núi Cấm rồi lại về tịnh xá Ngọc Quang tụng giới và cúng hội vào ngày 30 tháng Giêng. Sáng ngày mùng 1 tháng Hai năm Giáp Ngọ 5-3-1954, Tổ sư Minh Đăng Quang đi Vĩnh Long và Cần Thơ. Khi đến bến phà Cái Vồn, ngài được mời gặp tướng Năm Lửa Trần Văn Soái. Kể từ đó, hầu như không ai còn được thấy hành tung của ngài. Như vậy, ngài Minh Đăng Quang đã có mặt ở trần thế 32 năm, hành đạo suốt mười năm từ 1944 đến 1954 và nỗ lực nối truyền Chánh pháp của Phật Thích-ca được bảy năm 1947-1954. Về sau, hàng môn đồ đã chọn ngày mùng 1 tháng Hai âm lịch để tưởng niệm sự kiện ân sư vắng bóng. Tuy thời gian hành đạo và hoằng pháp của ngài quá ngắn nhưng Tổ sư đã để lại cho đời hơn 100 vị Tăng Ni đệ tử tiếp nhận chân truyền tư tưởng của Đạo Phật Khất Sĩ cùng với hơn hai chục ngôi tịnh xá rải rác khắp miền Nam Việt Nam làm cơ sở hành đạo và một bộ Chơn Lý gồm 69 bài luận thuyết minh giáo pháp. 2. Các cao đồ của ngài tiếp tục phát triển nền đạo Tổ sư phó chúc việc lãnh đạo Giáo đoàn vào ngày Rằm tháng Bảy năm Quý Tỵ 1953 tại tịnh xá Ngọc Viên và lời ngài căn dặn chư đệ tử chiều ngày 30 tháng Giêng năm Giáp Ngọ 1954 là “sẽ đi tu tịnh tại núi Lửa”, các vị đại đệ tử của ngài hiểu rằng Tổ sư Minh Đăng Quang đã biết trước và đã sắp đặt mọi việc trước ngày đi xa. Thi hành lời dạy của Tổ sư, chư Tăng Ni Khất Sĩ thượng thủ phân công nhau tiếp tục việc hoằng đạo, tạo nên một thời kỳ phát triển mới cho ĐPKSVN. Theo phó chúc của Tổ sư, các vị Giác Chánh, Giác Tánh và Giác Như điều hành giáo đoàn. Các ngài hướng dẫn đoàn Du Tăng đi ra miền Trung dọc theo duyên hải 1956-1957 rồi sau đó trở lại miền Nam, vào sâu các làng mạc xa xôi thuộc một số tỉnh ở miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Trong lúc ngài Giác Chánh lãnh đạo cuộc du phương hành hóa thì ngài Giác Như có nhiệm vụ duy trì sự hoạt động ở các tịnh xá đã thành lập. Trong quá trình du phương hành đạo này, các ngài tiếp nhận thêm đệ tử xuất gia và tại gia, mở rộng Giáo đoàn. 3. Hình thành các Giáo đoàn tiếp theo Khi đoàn Du Tăng trở về Nam, một số vị đã trụ lại miền Trung tiếp tục hoằng pháp. Trong các năm 1957 và 1958, hai vị Trưởng lão Giác Tánh và Giác Tịnh thành lập Giáo đoàn II, hành đạo ở vùng duyên hải miền Trung từ Bình Định ra đến Quảng Trị; Trưởng lão Giác An thành lập Giáo đoàn III, nỗ lực truyền pháp ở một phần duyên hải miền Trung và đi ngược lên Tây Nguyên. Khi trở về Nam, Pháp sư Giác Nhiên thành lập Giáo đoàn IV vào năm 1957, Trưởng lão Giác Lý thành lập Giáo đoàn V vào năm 1960 và Hòa thượng Giác Huệ, Hòa thượng Giác Đức thành lập Giáo đoàn VI vào năm 1962, tập trung giáo hóa ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Các vị Ni trưởng cũng tích cực hoằng pháp, thành lập Giáo hội Ni giới Khất sĩ Việt Nam lấy Tịnh xá Ngọc Phương ở quận Gò Vấp, Gia Định nay thuộc quận Gò Vấp, làm trụ sở chính. Vào tháng 5-1966, một kỳ đại hội được tổ chức để thành lập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam. Đến năm 1971, Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ thành lập hai viện Viện Chỉ đạo cung thỉnh chư trưởng lão Tôn túc chứng minh, Viện Hành đạo quy tụ chư Thượng tọa, Đại đức có năng lực đảm đương Phật sự. Hai viện này đã hoạt động liên tục đến ngày đất nước thống nhất vào năm 1975. Sau ngày 30-4-1975, chư Tăng Ni Khất Sĩ về an trú tại những ngôi tịnh xá tinh tấn tu hành theo giáo huấn của Tổ sư. Một số vị nương theo thời duyên di chuyển đến các xứ Âu, Mỹ, Úc để phát triển mối đạo. Từ năm 1980, ánh đạo Y Bát chơn truyền của Tổ sư Minh Đăng Quang đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Hiện nay, trên cả nước, kể cả ở một số tỉnh thành phía Bắc, Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam có vị Tăng và vị Ni đang tu học, góp phần làm Phật sự tại 550 tịnh xá. Ngoài ra, ở hải ngoại, chủ yếu là tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc… hiện có trên 50 tịnh xá, tịnh thất với khoảng hơn 100 Tăng Ni tu học và hành đạo. 4. Thực hiện tinh thần “Nên tập sống chung tu học” theo giáo hóa của Tổ sư Đầu năm 1980, Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam và Giáo hội Ni giới Khất Sĩ Việt Nam cùng tích cực tham gia Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam. Trên tinh thần hòa hợp, hai Giáo hội Tăng Ni Khất Sĩ cử 6 đại biểu tham dự Hội nghị đại biểu thống nhất thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào tháng 11 năm 1981 tại chùa Quán Sứ, thành phố Hà Nội trở thành một trong chín tổ chức Phật giáo sáng lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ đây, các tổ chức Phật giáo Khất Sĩ dùng chung một danh xưng mới là Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam. VI. Nét đặc thù trong những đóng góp của Hệ phái Khất Sĩ cho Phật giáo vùng Đồng bằng Sông Cửu Long ĐPKSVN là một hiện tượng tôn giáo đặc biệt của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với chủ trương rõ rệt là “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”, và “Đạo Phật Việt Nam không phân thừa”, đi sát với giáo lý nguyên thủy của Đức Phật, thọ nhận hành trì những đặc điểm tinh hoa của Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Dựa vào sự sáng tạo của vị Tổ sư và sự tận tụy của các vị đại đệ tử đã nhận được chân truyền, những đóng góp của ĐPKSVN cho Phật giáo nơi này có nhiều nét đặc thù. 1. Làm sống lại hình ảnh vị Tỳ-kheo thời Đức Phật Một đóng góp rất quan trọng của ĐPKSVN là làm sống lại hình ảnh các vị Tỳ-kheo thời Đức Phật. Bóng dáng những con người đầu trần chân đất đắp y vàng bá nạp ôm bình bát bình thản chậm rãi bước đi xin ăn để giáo hóa chúng sanh trên mọi nẻo đường đã gieo những ấn tượng sâu sắc trong lòng quần chúng đang đau khổ vì chiến tranh, vì đói khổ, vì bị ức hiếp bởi ngoại bang. Người dân Nam Bộ thời ấy đã thật sự xúc động khi thấy những con người đang thực hành hạnh nguyện “Nối truyền Thích-ca Chánh pháp”. Sự nghiêm cẩn của Tổ sư Minh Đăng Quang trong lúc chọn đệ tử đã là thành công đầu tiên của ngài. 2. Làm phong phú giáo lý của Đức Phật Với những lời lẽ đơn sơ nhưng không thiếu phần sâu sắc, lại phù hợp với thời đại và tâm lý người đương thời, giáo lý Khất Sĩ đã triển khai những tinh hoa của của Phật giáo, loại bỏ những rườm rà nhuốm màu mê tín hay thần bí, gìn giữ những đặc sắc của tư tưởng Đại thừa và cách hành trì Nguyên thủy nhấn mạnh đến việc không chen lộn trong đời về chỗ ở ăn chay mỗi ngày một bữa trước giờ ngọ; tu sĩ không sử dụng tiền bạc; mọi người đều là Khất sĩ như nhau, không hình phạt, không quyền, không trị, chỉ có một sự dạy mà tất cả được yên… Những điều đó đã làm giáo lý của Đức Phật trở thành sống động trong cuộc sống hàng ngày. 3. Làm đậm nét tinh thần hành trì giáo pháp của Đức Phật Theo đúng những chỉ dạy của Tổ sư Minh Đăng Quang, người Khất sĩ thực hành nếp sống giản dị. Tài sản vật chất của người Khất sĩ chỉ có một y một bát. Tất cả những phương tiện hành đạo đều thuộc về hàng cư sĩ, các vị hộ pháp. Tài sản thực sự của Khất sĩ là hiểu đúng Võ trụ quan rằng quả địa cầu là cái quả to bằng tứ đại, trong đó có chứa chúng sanh cũng bằng tứ đại, đủ ba hạng… và vì vậy mà xuất gia Khất sĩ lớp trên phải thực hành “Tứ y pháp” 1. Người tu xuất gia giải thoát phải lượm vải bỏ mà đâu lại thành áo, nhưng có ai cúng vải, đồ cũ thì được nhận; 2. Người tu xuất gia giải thoát chỉ ăn đồ xin mà thôi, nhưng ngày hội, thuyết pháp đọc giới bổn, được ăn tại chùa; 3. Người tu xuất gia giải thoát phải nghỉ dưới cội cây, nhưng có ai cúng lều, am nhỏ bằng lá một cửa thì được ở; 4. Người tu xuất gia giải thoát chỉ dùng cỏ cây hoa lá mà làm thuốc trong khi đau, nhưng có ai cúng thuốc dầu đường thì được dùng. Tứ y pháp là chánh pháp của võ trụ, quý báu hơn hết. 4. Sáng tạo những nét độc đáo về hình thức tu học Một trong những nét đặc trưng của giáo lý cũng như sinh hoạt thực tế của người Khất sĩ là có những sáng tạo có tính cách độc đáo về hình thức tu học. Giáo lý của ĐPKSVN được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị, sống động, thực tiễn, phù hợp với tâm tính người Nam Bộ. Nghi thức của Khất sĩ cũng rất tinh giản, không rườm rà, hình thức. Đặc biệt, kiến trúc ngôi tịnh xá là một sáng tác của ngài Minh Đăng Quang. Sau ngôi tịnh xá đầu tiên là Pháp Vân, những ngôi tịnh xá kế tiếp đều được Tổ sư Minh Đăng Quang đặt tên ghép với chữ Ngọc Ngọc mang ẩn dụ tịnh xá là nơi hoằng hóa, làm lợi cho chúng sanh, có giá trị như những viên ngọc quý. Chữ ghép với Ngọc, ngài cho phép tùy nghi dùng tên địa phương nơi tịnh xá tọa lạc hay một từ có ý nghĩa đạo đức thể hiện hoài bão của tập thể dựng nên tịnh xá. Khi kiến lập cở sở hạ tầng cho Đạo Phật Khất Sĩ, Tổ sư Minh Đăng Quang đã phác họa mô hình tịnh xá tám cạnh làm nơi quy tụ chúng Tăng Ni, tháp 13 tầng để thờ Pháp, có các nhà giảng kinh, nhà nghỉ mát và thọ thực, nơi tạm trú của Tăng, nơi tạm trú của Ni, nơi sinh hoạt của nam nữ cư sĩ riêng biệt… trong một khu đất có hồ sen, có núi đất, có ao rạch nhưng không được trồng bông và cây ăn trái, ở nơi xa chợ búa, xa nơi đông đúc phồn hoa, xa chốn binh gia, xa nơi tôn giáo… có hàng rào làm ranh, có cổng sáng 7 giờ mở ra chiều 5 giờ đóng lại để các sư có nơi tu tịnh. Với mô hình này, ngài đã xác lập tịnh xá là dành cho cả tứ chúng và chú ý đến tháp là tháp thờ giáo pháp của Đức Phật với 13 tầng tượng trưng cho 13 nấc tiến hóa của chúng sanh từ địa ngục tiến lên chánh giác, gồm lục phàm, tứ thánh, tam tôn. Ngài cũng không xem đạo của ngài là tôn giáo, mà chỉ là con đường. 5. Xây dựng ngôi nhà chung Phật giáo Việt Nam Như trên đã trình bày, vào năm 1980, cả hai Giáo hội Khất Sĩ Tăng và Ni đều tích cực tham gia cuộc vận động nhằm thống nhất Phật giáo Việt Nam, và trong Đại hội thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các đoàn thể Khất sĩ thể hiện tinh thần “Tam tụ – Lục hòa” cùng cử một đoàn đại biểu chung cho Khất sĩ. Tinh thần ấy đã khiến nhiều giáo đoàn Khất sĩ khác, chưa gia nhập Giáo hội Tăng-già Khất Sĩ Việt Nam thời 1969, lần lượt xin sáp nhập vào Hệ phái Khất sĩ, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay. Từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam được thành lập, Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam cũng đóng góp nhiều công sức trong việc xây dựng Giáo hội. Là một trong các tổ chức Phật giáo tham gia sáng lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam, việc phát triển của Hệ phái Khất Sĩ cũng là sự phát triển của Phật giáo Việt Nam. Hệ phái Khất Sĩ luôn tích cực tham gia mọi Phật sự. Đặc biệt, sự đóng góp của các vị tôn túc giáo phẩm thuộc Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam trong thành phần Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như trong các cấp Giáo hội được đánh giá cao với những hoạt động thiết thực ở mọi lãnh vực, từ Hoằng pháp đến Giáo dục Tăng Ni, từ Truyền thông đến Văn hóa, từ tổ chức Hướng dẫn Phật tử đến Tăng sự, và nhất là trong công tác Từ thiện xã hội, vốn là nếp quen của Hệ phái. 6. Góp phần xây dựng một nền văn hóa dung hợp dựa trên truyền thống Nam Bộ Với phương châm “Nên tập sống chung tu học”, với quan điểm “Phật giáo Việt Nam không phân thừa” và trên tinh thần thu góp tinh hoa của mọi tông phái, hoạt động của Hệ phái Khất Sĩ Việt Nam có tác động lớn đến việc xây dựng một nền văn hóa dung hợp, vốn là đặc điểm của tinh thần Nam Bộ, nơi sớm có sự hỗn dung của các nền văn hóa khác biệt vào lúc xây dựng vùng đất mới ở miền Nam nước Việt. * * * ĐPKSVN đã kế thừa truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Bắc tông và Nam tông, tâm nguyện là một cành nhánh lan tỏa từ ánh đạo vàng của Đức Bổn sư. Như mọi con sông đều đổ về biển cả, giáo lý của ĐPKSVN cùng hội nhập tư tưởng của mọi tổ chức Phật giáo khác trong vùng đều hòa vào biển Phật pháp nhiệm mầu mà Đức Thế Tôn đã khai sáng cách đây hơn 25 thế kỷ. THÍCH GIÁC TOÀN Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Số 349 Đạo Phật Khất Sĩ Việt Nam đã kế thừa truyền thống tốt đẹp của Phật giáo Bắc tông và Nam tông. Ảnh Đạo Phật Khất sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát từ Việt Nam và chỉ riêng ở Việt Nam mới có. Đây là một hệ phái Phật giáo biệt truyền do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, mở Đạo vào giữa năm 1944 ở Nam Bộ với tôn chỉ “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Nếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 77 năm 1944 – 2021. Quãng thời gian này ngắn so với trường kỳ lịch sử Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng, nhưng Đạo Phật Khất sĩ lại có một sức sống, sức lan toả ảnh hưởng và sự phát triển có thể nói là nhanh chóng. Lúc mới thành lập, hệ phái này chỉ truyền thừa ở miền Tây Nam Bộ, bấy giờ giáo đoàn du tăng chỉ có khoảng vài mươi người, thì không lâu sau, Đạo Phật Khất sĩ đã lớn mạnh, nhiều đoàn du tăng được thành lập, đã mang y bát chân truyền và đem giáo lý từ bi của đức Từ Phụ đi phổ độ, hoằng hoá ở Sài Gòn – Gia Định và khắp các tỉnh thuộc Tây và Đông Nam Bộ. Từ sau năm 1954 đến trước năm 1975, Đạo Phật Khất sĩ đã được truyền bá rộng rãi đến các tỉnh ở khu vực Trung Bộ từ Huế, Quảng Trị trở vào, rồi đến hôm nay, hệ phái Phật giáo này đã hiện diện trên khắp đất nước Việt Nam. Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn để Hệ phái Phật giáo này phát triển nhanh chóng đến thế? Cái làm nên sức hấp dẫn cùng niềm kính tin tâm linh đối với thế nhân, giúp cho Đạo Phật Khất sĩ phát triển lớn mạnh là nhờ đức Tổ sư khai sáng và các hàng đệ tử kế tục đã biết vận dụng giáo lý Khế cơ, Khế thời, Khế xứ, Khế lý của Đức Thế tôn một cách uyển chuyển vào thực tế đời sống xã hội ở Việt Nam và ở một số nước khác, với sự dung hợp đặc trưng của hai truyền thống Phật giáo đã tồn tại và phát triển lâu đời là Phật giáo Nguyên thuỷ và Phật giáo Đại thừa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Từ thực tiễn hoạt động hoằng dương chánh pháp của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm sự hấp dẫn của hệ phái Phật giáo này như sau Hình ảnh của đoàn du tăng khất thực hoá duyên, sống đời phạm hạnh Đây là yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái. Về vật dụng tuỳ thân, Tổ sư Minh Đăng Quang đã chọn hình thức tam y nhất bát. Hình thức pháp phục và bình bát của đoàn du tăng Khất sĩ Việt Nam giống như hình ảnh tăng đoàn đi khất thực hoá duyên thời Đức Phật còn tại thế. Chính Tổ sư đã tự mình phát nguyện thọ giới Tỳ kheo, giữ gìn và thực hành 250 giới cấm theo quy định về giới luật của Phật giáo Bắc truyền theo bộ luật Đàm Vô Đức và lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang mà không phải do một vị thầy Nam truyền hay Bắc truyền nào đặt pháp hiệu, dù trước đó, lúc còn trai trẻ, Ngài đã từng xuất gia tu học tại Campuchia. Hình ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độ chúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa, tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thuỷ như lúc Đức Thế tôn còn tại thế Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện. Quy định này hiện nay Phật giáo Nam truyền/Nam tông Theravàda vẫn thực hành. Nhưng khác với Phật giáo Nam truyền ở chỗ là nếu Phật giáo Nguyên thuỷ khi xưa và Phật giáo Nam truyền hôm nay, tín đồ Phật tử dâng cúng thức ăn gì thì độ thức ăn đó, không phân biệt chay mặn, trong khi đó giới luật của Hệ phái Khất sĩ quy định tu sĩ phải ăn chay. Đây là cách tiếp thu giới luật của Phật giáo Bắc truyền. Về nguồn gốc, thuật ngữ Bhikkhu Pali hay Bhiksu Sançrit được phiên âm là Tỳ Kheo, Tỷ kheo, Tỳ khưu, Tỳ khâu, Tỷ khâu… là khái niệm của Bà la môn giáo, dùng để chỉ cho giai đoạn thứ tư tức “du hành kỳ” trong cuộc đời của tu sĩ Bà-la-môn1, trong đó người chủ gia đình rời bỏ đời sống gia đình, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lí giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ này dùng để chỉ tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lĩnh giới luật. Đúng ra thuật ngữ Bhikkhu hay Bhiksu nên định danh là Khất sĩ. Gọi là Khất sĩ bởi vì theo quan niệm của Đức Thế tôn, với người xuất gia trên thì khất pháp xin pháp từ Đức Phật để tu thân dưỡng trí, dưới thì đến chỗ nhân gian thế tục để khất thực xin ăn nuôi thân. Cũng cần lưu ý là người hành khất người ăn xin, ăn mày ở thế gian chỉ xin cơm áo nuôi sống bản thân, không xin pháp và không hoá độ ai cả nên không được gọi là Tỳ kheo Khất sĩ. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, tăng ni đạo Phật đều sống bằng khất thực hằng ngày. Mục đích của việc khất thực là tạo ra mối liên hệ thân thiết giữa tu sĩ và dân chúng, tạo cơ hội cho tu sĩ hướng dẫn dân chúng Phật tử về mặt đạo đức và tâm linh, còn dân chúng thì có cơ hội cúng dường tu sĩ, tạo được phước đức cho bản thân mình, hay kết duyên lành với việc tu hành. Người xuất gia khi đã thọ Cụ túc giới 250 giới đối với nam, 348 giới đối với nữ thì phải nương theo Tứ y pháp, trong đó có Y theo pháp, nghĩa là Tỳ kheo Khất sĩ phải bỏ nhà cửa gia sản, đi du hóa trong nhân gian, xin ăn nuôi thân, tùy nơi mà giáo hóa, độ kẻ có duyên phúc và độ người chưa tin, giúp họ có niềm tin Phật Thánh và nhân quả. Đó là xin ăn để nuôi thân xác và có dịp để độ người. Còn xin pháp để nuôi huệ mạng, nghĩa là cầu xin pháp Phật, nối liền cái trí tuệ công đức thành tựu của Phật với tâm của mình. Ấy là độ mình. Đủ hai điều kiện này mới được gọi là Tỳ kheo Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện của Hệ phái Tôn chỉ và chí nguyện của Hệ phái do đức Tổ sư khai sáng đã nêu ra, theo thiển ý, đây là yếu tố quan trọng thứ hai để tạo nên sức hấp dẫn lớn của Đạo Phật Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện này cũng chính là giáo lý căn bản của Hệ phái Đạo Phật Khất sĩ, mà tư tưởng giáo lý này thể hiện trong các bài giảng pháp của đức Tổ sư, sau này có ghi lại đầy đủ trong bộ Chơn lý. Khi mới mở đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu lên tôn chỉ và chí nguyện “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Tư tưởng này có được là nhờ Tổ sư Minh Đăng Quang sau nhiều năm tu học tại Campuchia và tự nghiên cứu Tam tạng kinh điển của hai hệ phái Nam truyền và Bắc truyền tại Việt Nam, cùng sau này nhờ Thiền quán mà Ngài đã đắc pháp, từ đó Ngài đã chắt lọc các tư tưởng chính yếu trong giáo pháp của hai truyền thống Phật giáo này để nêu lên phương pháp hành trì tu tập của hệ phái. Tôn chỉ và chí nguyện này đã góp phần làm sống lại những hình ảnh đoàn du tăng khất thực và tư tưởng giải thoát của đạo Phật Nguyên thuỷ từ thời đức Phật còn tại thế, sống đời phạm hạnh, cầu giải thoát. Bộ Chơn lý là sự tập hợp những bài thuyết giảng của Ngài đã giảng dạy cho hàng đệ tử với 69 bài giảng chứa đựng nội dung về kinh, luật và luận. Những bài giảng này vừa tóm gọn được tinh hoa của tư tưởng triết lý đạo Phật, rút ra cách nhìn nhận của Ngài về vũ trụ quan, công lý vũ trụ, nhân sinh quan, lại vừa chứa đựng những giáo pháp cao siêu, huyền diệu của Đức Phật. Từ đó, Ngài đề ra những phương pháp tu tập, như du hoá, khất thực, thiền định, trên cơ sở giáo lý Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Tam vô lậu học, Bát chánh đạo… Những bài thuyết giảng của Ngài được giảng bằng một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, rõ ràng, cụ thể, không dùng ẩn ngữ, với phương pháp diễn giải trực tiếp và lập luận rõ ràng vững chắc theo kiểu Tam đoạn luận, phù hợp với tâm lý và tính cách mộc mạc, giản dị của người dân Nam Bộ nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Trong những bài pháp của Tổ sư, Ngài đã kế thừa những tư tưởng phá mê khai ngộ, đoạn trừ tà kiến, phủ nhận uy quyền, thế lực của đấng Phạm Thiên, Đế Thích hay bất kỳ vai trò của thần thánh nào, như lời Đức Phật đã dạy. Tư tưởng đó đề cao vai trò của mỗi cá nhân con người. Tất cả mỗi người phải tự mình nỗ lực tu tập, “tự mình thắp đuốc mà đi”, tức mỗi người là ngọn đèn của chính mình, tự mình quyết định sự sống của mình bằng con đường Chánh đạo như lời Đức Phật đã dạy. Chính sự giản dị, mộc mạc trong cách giảng thuyết cho đệ tử, cho tín đồ Phật tử ai nghe cũng hiểu được Phật pháp và thanh tịnh trong phương pháp tu hành, trong sở đắc, nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ lúc khai lập Hệ phái năm 1944 đến lúc Ngài vắng bóng năm 1954, tức chỉ trong 10 năm, vậy mà Ngài đã để lại cho môn đồ kho tàng tri thức tâm linh cao vời, tạo được gốc rễ truyền đạo vững vàng mà bao thế hệ truyền thừa sau này phải thầm cảm phục, tri ân, tưởng nhớ. Đây là một đặc điểm nổi bật nhất và đáng tôn vinh nhất và cũng là niềm tự hào của cả Hệ phái. Đây cũng chính là cơ sở để sau khi Ngài vắng bóng, các hàng đệ tử kế tục nối truyền. Về phương pháp tu tập Đạo Phật Khất sĩ nêu ra một số chủ trương về phương pháp tu tập như Hành trì tu tập Giới – Định – Tuệ theo Bát chánh đạo; Dung hợp hai pháp môn tu tập Thiền tông và Tịnh độ tông; Thực hành Tứ y pháp; Áp dụng tinh thần Lục hoà của Phật giáo Nguyên thuỷ trong đời sống tăng đoàn. Ngài chủ trương Sống chung, học chung, tu chung, Ngài đã dạy “Nên tập sống chung tu học Cái sống là phải sống chung, Cái biết là phải học chung, Cái linh là phải tu chung” Chơn lý; Chủ trương Tự tứ cả giáo đoàn, tức sau ba tháng an cư kiết hạ, đến ngày Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm, tất cả thành viên của giáo đoàn tập trung Tự tứ tại một Tịnh xá nào đó được cả giáo đoàn thống nhất lựa chọn và chỉ định. Điểm đặc biệt là Đạo Phật Khất sĩ lấy Giới – Định – Tuệ làm trung tâm để tu tập thiền định và đã dung hoà tinh hoa tư tưởng giáo lý của Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Tên gọi nơi trú xứ Nơi trú xứ của hệ phái được gọi là Tịnh xá, chứ không gọi là Chùa, Tự viện, Thiền viện… như Phật giáo Nam truyền hay Bắc truyền đã gọi. Cách định danh này là gọi theo Phật giáo Nguyên thuỷ từ thời Đức Phật còn tại thế. Và hồi bấy giờ, các vị Khất sĩ không ở một nơi nào cố định trong một thời gian dài vài ba tháng. Tiếp thu cách tổ chức này của Phật giáo Nguyên thuỷ, Ngài Tổ sư Minh Đăng Quang đã quy định trong giới luật của Hệ phái là các tu sĩ xuất gia không được ở một nơi trú xứ nào đó quá ba tháng. Trước năm 1975, các giáo đoàn của Hệ phái tuân thủ quy định này một cách nghiêm cẩn, nhưng sau năm 1975 đến nay thì không còn quy định này nữa, bởi phải chấp hành sự quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là một cách ứng xử linh hoạt mềm dẻo theo tinh thần khế thời, khế xứ, khế cơ mà Đức Thế tôn từng giảng dạy. Kiến trúc Chánh điện và Bảo Tháp nơi Tịnh xá Đây là nét kiến trúc rất đặc trưng của Hệ phái. Hồi mới mở đạo, Tổ sư khai sáng đã cho thiết kế xây dựng Chánh điện của Tịnh xá theo hình bát giác để biểu trưng cho Bát chánh đạo Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mệnh, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Nóc dưới của Chánh điện có 8 mái, nóc trên có 4 mái, đặt búp sen, trên cùng là hình tượng ngọn đuốc, đặt trên búp sen, để biểu trưng cho ngọn đèn trí tuệ soi sáng chân lý. Cách thiết kế nơi không gian thiêng liêng đã cho thấy nét đặc thù của Hệ phái Khất sĩ có khác với Chánh điện của Phật giáo Nam truyền hay Phật giáo Bắc truyền. Tất cả các Tịnh xá của Hệ phái tại Chánh điện chỉ tôn thờ tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nơi trung tâm điện thờ. Đây là điểm giống với Phật giáo Nam truyền, bởi Phật giáo Nam truyền Nguyên thuỷ cũng chỉ thờ phụng Phật Thích Ca nơi chánh điện. Ở một nơi không gian thiêng liêng khác, Đạo Phật Khất sĩ còn thờ Bồ tát Quán Thế Âm, Phật Di Lặc. Điểm này Đạo Phật Khất sĩ có khác với Phật giáo Nam truyền và có nét giống với Phật giáo Bắc truyền Đại thừa, dù nơi Chánh điện của Phật giáo Bắc truyền thờ nhiều hơn, bởi các chùa của Phật giáo Bắc truyền bên cạnh thờ Tam thế chư Phật, cỏn thờ nhiều vị Bồ tát khác như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù Sư Lợi, Phổ Hiền, Địa Tạng… Về biểu tượng hoa sen và Ngọn đèn chân lý. Hình ảnh hoa sen rất quen thuộc trong đời sống của người Việt Nam. Từ phẩm chất của hoa sen, sống “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Ca dao Việt Nam, đức Tổ sư đã rút ra bài học để giảng dạy cho hàng đệ tử “Đời sống của hoa sen, lá sen, quả sen thật là từ bi và trí huệ, sống trong khoảng không trung bao quát mà không thiếu phần lợi ích cho cả chúng sanh phía dưới. Thế sao chúng ta lại chẳng noi gương theo, tuy cái sống không mùi vị mà được lắm sự thanh cao, ý nghĩa quý báu”2. Hình ảnh Ngọn đèn chân lý còn được gọi là “Đuốc tuệ” hay “Đuốc trí tuệ” là biểu tượng cho “Bó đuốc soi sáng chân lý”. Chân lý là lẽ sự thật của hiện tượng tự nhiên hay thực tại. Theo nhà Phật, có ba chân lý mà người tu theo Phật thường khắc ghi trong tâm trí của mình, nhà Phật gọi đó là “Tam pháp ấn” Chư hành vô thường, Chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh. Người học Phật nếu thông tỏ được các pháp hữu vi đều vô thường, tức không thường trụ tồn tại vĩnh hằng, tất cả đều phải theo quy luật thành trụ hoại diệt, sinh lão bệnh tử; hiểu rõ các sự vật đều chẳng có tự ngã, tất cả do nhân duyên mà sinh ra và cũng do nhân duyên mà tự diệt; thì từ đó mới đạt được cảnh giới tâm tự tại, trống rỗng, lặng lẽ, hư tịch, an tịnh, sống an nhiên tự tại trong cõi trần thế. Đó chính là Niết bàn, là “Phật tại tâm”, là “Bụt làm lòng”. Theo Tổ Sư khai sáng Hệ phái thì tất cả mỗi người phải tự là ngọn đèn của chính mình, tự mình tìm đến chân lý, và sau khi giác ngộ đủ đầy thì mới giáo hoá cho người khác “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” như lời Đức Phật đã từng dạy. Nguyễn Công Lý PGS, TS, Ủy viên Hội đồng tư vấn về Tôn giáo, UBTW MTTQ Việt Nam Chú thích 1. Theo Bà-la-môn giáo, cuộc đời của con người nam giới phải trải qua bốn thời kỳ 1. Phạm trí kỳ Từ nhỏ ở với gia đình, khi lớn lên, khoảng 10 tuổi đến khi trưởng thành tìm thầy học đạo, chủ yếu là học kinh văn Veda và Upanishad; 2. Gia cư kỳ Khi học kinh điển; thông suốt, lúc này đã trưởng thành thì về nhà lập gia đình, làm nhiệm vụ gia trưởng, chăm lo cúng tế thầy tư tế, sinh con đẻ cái; 3. Lâm cư kỳ Làm xong nghĩa vụ gia đình, gia tộc, lúc này con cái đã lớn, thì vào rừng tu tập khổ hạnh theo phạm chí; 4. Du hành kỳ Lúc này hành giả đã già, du hoá khất thực, tìm cầu chân lý với phong thái tự tại, thong dong. 2. Tổ sư Minh Đăng Quang, Chơn lý, bài Trên mặt nước, Nxb. Tôn giáo, 2009, trang 491. Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, về sau là Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, và ngày nay là Hệ phái Khất sĩ 1981 là 1 trong 9 tổ chức thành viên của Giáo hội Phật giáo đã có nhiều đóng góp đáng kể vào sự thống nhất và phát triển bền vững của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hôm nay. Đạo Phật Khất sĩ là một sáng tạo độc đáo của Việt Nam, xuất phát từ Việt Nam, chỉ riêng ở Việt Nam mới có. Đây là một hệ phái Phật giáo biệt truyền do Tổ sư Minh Đăng Quang khai sáng, mở đạo vào giữa năm 1944 ở Nam bộ với tôn chỉ “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”.Bạn đang xem Sức Hấp Dẫn Của Đạo Phật Khất Sĩ Là GìNếu so với nhiều tông phái, hệ phái khác của Phật giáo thì Hệ phái Khất sĩ tính đến nay chỉ mới tồn tại vừa đúng 70 năm 1944-2014. Quảng thời gian này là quá ngắn so với trường kỳ lịch sử Phật giáo nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng. Nhưng Đạo Phật Khất sĩ lại có một sức sống, sức lan toả ảnh hưởng và sự phát triển có thể nói là nhanh chóng. Lúc mới thành lập, hệ phái này chỉ truyền thừa ở miền Tây Nam bộ. Bấy giờ, giáo đoàn du tăng chỉ có khoảng vài mươi người, thì không lâu sau, Đạo Phật Khất sĩ đã lớn mạnh. Nhiều đoàn du tăng được thành lập, đã mang y bát chân truyền và đem giáo lý từ bi của đức Từ Phụ đi phổ độ, hoằng hoá ở Sài Gòn – Gia Định và khắp các tỉnh thuộc Tây và Đông Nam bộ. Từ sau năm 1954 đến trước năm 1975, Đạo Phật Khất sĩ đã được truyền bá rộng rãi đến các tỉnh ở khu vực Trung bộ từ Huế, Quảng Trị trở vào. Rồi đến hôm nay, hệ phái Phật giáo này đã hiện diện trên khắp toàn cõi Việt Nam và đang truyền bá ở vài châu lục tại một số nước trên thế giới như Úc, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Canada...Điều gì đã tạo nên sức hấp dẫn để Hệ phái Phật giáo này phát triển nhanh chóng đến thế? Theo chủ quan của tôi, cái làm nên sức hấp dẫn cùng niềm kính tin tâm linh đối với thế nhân, giúp cho Đạo Phật Khất sĩ phát triển lớn mạnh là nhờ đức Tổ sư khai sáng. Và các hàng đệ tử kế tục đã biết vận dụng giáo lý Khế cơ, Khế thời, Khế xứ, Khế lý của Đức Thế tôn, một cách uyển chuyển vào thực tế đời sống xã hội ở Việt Nam và ở một số nước khác. Với sự dung hợp đặc trưng của hai truyền thống Phật giáo, đã tồn tại và phát triển lâu đời là Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Bắc truyền. Sự dung hợp này thể hiện ở nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau, mà ở đây bước đầu chúng tôi chỉ xin nêu những điểm nổi bật và dễ nhận thấy mà thôi. Từ thực tiễn hoạt động hoằng dương chánh pháp của Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam, có thể rút ra một số đặc điểm, chúng tôi tạm cho đó là sự hấp dẫn của hệ phái Phật giáo này như sauMột là, hình ảnh của đoàn du tăng khất thực hóa duyên, sống đời phạm là yếu tố đầu tiên tạo nên sức hấp dẫn của Hệ phái. Về vật dụng tùy thân, Tổ sư Minh Đăng Quang đã chọn hình thức “tam y nhất bát”. Hình thức pháp phục và bình bát của đoàn du tăng Khất sĩ Việt Nam giống như hình ảnh tăng đoàn đi khất thực hóa duyên thời Đức Phật còn tại thế. Chính Tổ sư đã tự mình phát nguyện thọ giới Tỳ-kheo, giữ gìn và thực hành 250 giới cấm theo quy định về giới luật của Phật giáo Bắc truyền theo bộ luật Đàm Vô Đức, và lấy pháp hiệu Minh Đăng Quang mà không phải do một vị thầy Nam truyền hay Bắc truyền nào đặt pháp hiệu, dù trước đó, lúc còn trai trẻ, Ngài đã từng xuất gia tu học tại ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độ chúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thủy, mà lúc Đức Thế tôn còn tại thế, Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện. Quy định này hiện nay Phật giáo Nam truyền/Nam tông Theravàda vẫn thực hành. Nhưng khác với Phật giáo Nam truyền ở chỗ, nếu Phật giáo Nguyên thủy khi xưa và Phật giáo Nam truyền hôm nay, tín đồ Phật tử dâng cúng thức ăn gì thì độ thức ăn đó, không phân biệt chay mặn, trong khi đó giới luật của Hệ phái Khất sĩ quy định tu sĩ phải ăn chay. Đây là cách tiếp thu giới luật của Phật giáo Bắc nguồn gốc, thuật ngữ Bhikkhu Pali hay Bhiksu Sançrit được phiên âm là Tỳ Kheo, Tỷ kheo, Tỳ khưu, Tỳ khâu, Tỷ khâu là khái niệm của Bà-la-môn giáo, dùng để chỉ cho giai đoạn thứ tư tức “du hành kỳ” trong cuộc đời của tu sĩ Bà-la-môn. Trong đó, người chủ gia đình rời bỏ đời sống gia đình, sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lý giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ này dùng để chỉ tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lĩnh giới luật, tương đương với thuật ngữ Sa môn thuật ngữ này cũng của Bà-la-môn giáo.Đúng ra, thuật ngữ Bhikkhu hay Bhiksu nên định danh là Khất sĩ. Gọi là Khất sĩ bởi vì theo quan niệm của Đức Thế tôn, với người xuất gia trên thì khất pháp xin pháp từ Đức Phật để tu thân dưỡng trí, dưới thì đến chỗ nhân gian thế tục để khất thực xin ăn nuôi thân. Cũng cần lưu ý là người hành khất người ăn xin, ăn mày ở thế gian chỉ xin cơm áo nuôi sống bản thân, không xin pháp và không hoá độ ai cả nên không được gọi là Tỳ-kheo Khất sĩ. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, Tăng Ni đạo Phật đều sống bằng khất thực hằng độ Khất sĩ hiện nay được duy trì ở các nước Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Miên, Việt Nam... Mục đích của việc khất thực là tạo ra mối liên hệ thân thiết giữa tu sĩ và dân chúng. Tạo cơ hội cho tu sĩ hướng dẫn dân chúng Phật tử về mặt đạo đức và tâm linh, còn dân chúng thì có cơ hội cúng dường tu sĩ, tạo được phước đức cho bản thân mình, hay kết duyên lành với việc tu hành. Người xuất gia khi đã thọ Cụ túc giới 250 giới đối với nam, 348 giới đối với nữ thì phải nương theo Tứ y pháp. Trong đó, có Y theo pháp, nghĩa là Tỳ-kheo Khất sĩ phải bỏ nhà cửa gia sản, đi du hóa trong nhân gian, xin ăn nuôi thân, tùy nơi mà giáo hóa, độ kẻ có duyên phúc và độ người chưa tin, giúp họ có niềm tin Phật Thánh và nhân quả. Đó là xin ăn để nuôi thân xác và có dịp để độ người. Còn xin pháp để nuôi huệ mạng, nghĩa là cầu xin pháp Phật, nối liền trí tuệ công đức thành tựu của Phật với tâm của mình, ấy là độ mình. Đủ hai điều kiện này mới được gọi là Tỳ-kheo Khất sĩ.Xem thêm Cặp Siêu Quậy Thiếu Lâm Tiểu Tử Bất Ngờ Tái Hợp Sau 27 Năm, Còn Hôn Nhau Thắm Thiết Làm Fan Suýt "Đẩy Thuyền"Hai là, tôn chỉ và chí nguyện của Hệ chỉ và chí nguyện của Hệ phái do đức Tổ sư khai sáng đã nêu ra, theo thiển ý, đây là yếu tố quan trọng thứ hai để tạo nên sức hấp dẫn lớn của Đạo Phật Khất sĩ. Tôn chỉ và chí nguyện này cũng chính là giáo lý căn bản của Hệ phái Đạo Phật Khất sĩ, mà tư tưởng giáo lý này thể hiện trong các bài giảng pháp của đức Tổ sư, sau này có ghi lại đầy đủ trong bộ Chơn lý. Khi mới mở đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã nêu lên tôn chỉ và chí nguyện “Y bát chơn truyền; Nối truyền Thích Ca chánh pháp”. Tư tưởng này có được là nhờ Tổ sư Minh Đăng Quang sau nhiều năm tu học tại Campuchia, và tự nghiên cứu Tam tạng kinh điển của hai hệ phái Nam truyền và Bắc truyền tại Việt Nam. Cùng sau này nhờ Thiền quán mà Ngài đã đắc pháp, từ đó Ngài đã chắt lọc các tư tưởng chính yếu trong giáo pháp của hai truyền thống Phật giáo này để nêu lên phương pháp hành trì tu tập của hệ phái. Tôn chỉ và chí nguyện này đã góp phần làm sống lại những hình ảnh đoàn du tăng khất thực, và tư tưởng giải thoát của đạo Phật Nguyên thủy từ thời đức Phật còn tại thế, sống đời phạm hạnh, cầu giải thoát. Chính Tổ sư Minh Đăng Quang đã có bài thi kệ chép trong bộ Chơn lý của Ngài“Nhất bát thiên gia phạn,Cô thân vạn lý cùng sanh tử lộ,Khất hoá độ xuân thu”.Tạm dịch Một bát cơm ngàn nhà,Một mình muôn dặm dứt đường sanh tử,Xin pháp, độ ngày qua. NCL dịchBộ Chơn lý là sự tập hợp những bài thuyết giảng của Ngài đã giảng dạy cho hàng đệ tử với 69 bài giảng chứa đựng nội dung về kinh, luật và luận. Những bài giảng này vừa tóm gọn được tinh hoa của tư tưởng triết lý đạo Phật, rút ra cách nhìn nhận của Ngài về vũ trụ quan, công lý vũ trụ, nhân sinh quan, lại vừa chứa đựng những giáo pháp cao siêu, huyền diệu của Đức Phật. Trên cơ sở đó, Ngài đề ra những phương pháp tu tập như du hoá, khất thực, thiền định, trên cơ sở giáo lý Tứ diệu đế, Thập nhị nhân duyên, Tam vô lậu học, Bát chánh đạo… Những bài thuyết giảng của Ngài được giảng bằng một ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, rõ ràng, cụ thể, không dùng ẩn ngữ. Với phương pháp diễn giải trực tiếp và lập luận rõ ràng vững chắc theo kiểu Tam đoạn luận, phù hợp với tâm lý và tính cách mộc mạc, giản dị của người dân Nam bộ nói riêng, của người Việt Nam nói những bài pháp của Tổ sư, Ngài đã kế thừa những tư tưởng phá mê khai ngộ, đoạn trừ tà kiến, phủ nhận uy quyền, thế lực của đấng Phạm Thiên, Đế Thích hay bất kỳ vai trò của thần thánh nào, như lời Đức Phật đã dạy. Tư tưởng đó đề cao vai trò của mỗi cá nhân con người. Tất cả mỗi người phải tự mình nỗ lực tinh cần tu tập, “tự mình thắp đuốc mà đi”, tức mỗi người là ngọn đèn của chính mình, tự mình quyết định sự sống của mình bằng con đường Chánh đạo như lời Đức Phật đã thêm Thế Nào Là Tình Yêu Chân Thành Là Gì, Dấu Hiệu Nhận Biết Của Một Người Chân ThànhChính sự giản dị, mộc mạc trong cách giảng thuyết cho đệ tử, cho tín đồ Phật tử ai nghe cũng hiểu được Phật pháp và thanh tịnh trong phương pháp tu hành, trong sở đắc. Nên chỉ trong trong một thời gian rất ngắn, từ lúc khai lập Hệ phái 1944 đến lúc Ngài vắng bóng 1954, tức chỉ trong 10 năm, vậy mà Ngài đã để lại cho môn đồ kho tàng tri thức tâm linh cao vời, tạo được gốc rễ truyền đạo vững vàng mà bao thế hệ truyền thừa sau này phải thầm cảm phục, tri ân, tưởng nhớ. Đây là một đặc điểm nổi bật nhất và đáng tôn vinh nhất và cũng là niềm tự hào của cả Hệ phái. Đây cũng chính là cơ sở để sau khi Ngài vắng bóng, các hàng đệ tử kế tục nối truyền, và nhất là đến hôm nay, Đạo Phật Khất sĩ đã hiện diện trên khắp tất cả các châu lục mà ở trước có giới thiệu qua. Nhờ chủ trương sử dụng nghi thức tụng niệm thuần Việt với thể loại thơ ca Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã phát triển nhanh trong cộng đồng Nam bộ. Tuy nhiên, nghi thức tụng niệm của Tăng giới và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ vẫn chưa thống nhất, với nhiều dị biệt. Điều này phần nào làm giảm đi sức mạnh thống nhất nội bộ của Hệ phái Khất sĩ. Tôi cho rằng một khi Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ đều sử dụng thống nhất một NTTN, sức mạnh nội tại của Hệ phái sẽ mạnh hơn, thuyết phục hơn và nhập thế hiệu quả hơn. “NGHI THỨC TỤNG NIỆM” CỦA HỆ PHÁI KHẤT SĨ TẠI VIỆT NAM Thích Nhật Từ Phó Viện trưởng – Tổng thư ký Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam I. DẪN NHẬP Phạm vi nghiên cứu của bài này là “Nghi thức tụng niệm” viết tắt là NTTN của Hệ phái Khất sĩ Tăng trong sự so sánh với các nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông. Bài viết chủ yếu khái quát về các nghi thức thông dụng trong Hệ phái Khất sĩ, những điểm tương đồng và dị biệt giữa NTKS với các NTTN thuộc các hệ phái Phật giáo Bắc tông khác. Sau đây là các khái niệm được mặc định trong bài viết này i Nghi thức tụng niệm viết tắt là NTTN chỉ chung cho các nghi thức thuộc bất kỳ hệ phái Phật giáo nào. Tùy theo từng ngữ cảnh, khái niệm này có thể chỉ cho nghi thức của Bắc tông, hoặc của Khất sĩ, hoặc của Nguyên thủy. ii Nghi thức Khất sĩ viết tắt là NTKS chỉ cho NTTN của Tăng giới Hệ phái Khất sĩ và ở vài ngữ cảnh khác, chỉ chung cho các nghi thức tụng niệm của hệ phái Khất sĩ, bao gồm quyển Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo do NT Huỳnh Liên soạn, được Ni giới Hệ phái Khất sĩ sử dụng tại các Tịnh xá dành cho Ni giới, iii Nghi thức Bắc tông viết tắt là NTBT chỉ chung cho các NTTN được sử dụng trong các hệ phái và tự viện thuộc Phật giáo Bắc tông của Việt Nam trong nước và nước ngoài. iv Nghi thức Nguyên thủy viết tắt là NTNT chỉ chung cho các nghi thức tụng niệm của Phật giáo Nguyên thủy Theravada bao gồm các nghi thức đầu tiên do Hòa thượng Hộ Tông soạn dịch cho đến các nghi thức mới tại Việt Nam và hải ngoại trong hai thập niên trở lại đây. II. CẤU TRÚC CỦA NGHI THỨC KHẤT SĨ Có thể chia NTKS thành bốn nhóm chính i Nghi thức sám hối,[1] ii Nghi thức cầu an,[2] iii Nghi thức cầu siêu,[3] iv Các nghi thức khác bao gồm a Nghi thức cúng dường,[4] b Kinh cúng cửu huyền,[5] c Nghi thức thọ trì,[6] và d Các kệ tụng.[7] Các Nghi thức sám hối, Nghi thức cầu an và Nghi thức cầu siêu có cấu trúc giống nhau gồm a Phần dẫn nhập, b Phần chính kinh, c Phần hồi hướng.[8] Trong nhóm “Các nghi thức khác” đơn giản nhất là “Kệ tụng” chỉ gồm 14 kệ, phần lớn theo thể song thất lục bát; riêng kệ 2[9] theo thể ngủ ngôn, các kệ 13 và kệ 14 theo thể lục bát; kệ 12 phần đầu theo thể lục bát, phần sau là bốn kệ theo thể thất ngôn tứ tuyệt và bài 6[10] là văn xuôi. 1 Phần dẫn nhập Về thể loại, phần dẫn nhập của NTKS gồm các bài thơ, mỗi bài gồm 4 câu, có khi là thất ngôn đường luật và có khi là song thất lục bát. Về trật tự, các bài kệ trên được sắp xếp theo thứ tự i “Dâng hương” [11] bằng thể thất ngôn đường luật, ii “Lễ Phật,”[12] iii Lễ Pháp,”[13] iv “Lễ Tăng”[14] cả ba đều bằng thể song thất lục bát, v “Kỉnh nguyện,”[15] bằng văn xuôi, vốn tương đương phần Nguyện hương trong các NTBT, vi Khai kinh kệ, bằng thể thất ngôn đường luật, vốn diễn thơ từ bài chữ Hán trong các NTBT.[16] 2 Phần chính kinh NTKS chỉ có vỏn vẹn 6 bài chính kinh. Trong NTKS, “Nghi thức sám hối” có chính kinh là Hồng danh bửu sám,[17] “Nghi thức cầu an” có chính kinh là “Kinh Phổ Môn”[18] và “Nghi thức cầu siêu” có ba chính kinh là “Kinh Vu-lan-bồn,[19] Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân,[20] Kinh A-di-đà[21] và Kinh Vô ngã tướng.”[22] Trong “Nghi thức cúng dường” và “Kinh cúng cửu huyền”, bài chính kinh được thay bằng “bài kệ chính của nghi thức”, chẳng hạn, trong “Nghi thức cúng dường” thì có bài “Cúng dường Tam bảo,”[23] và trong “Kinh cúng cửu huyền thất tổ,” thì có bài “Cúng cửu huyền thất tổ.”[24] 3 Phần hồi hướng Trong NTKS, phần Hồi hướng thường ngắn gọn hơn các NTBT. Phần Hồi hướng trong Nghi thức cầu an gồm có Bát-nhã Tâm kinh, Thập nguyện, Hồi hướng và Tam quy;[25] Lời nguyện cuối Phục nguyện trong NTBT được thay thế bằng bài “Lời khuyên nhắc.”[26] Phần Hồi hướng trong Nghi thức cầu siêu gồm có Bát-nhã Tâm kinh, Nguyện vãng sanh, Tán thán Phật, Sám thập phương, Thập nguyện, Hồi hướng và Tam quy; không có phục nguyện. Trong Nghi thức sám hối, phần hồi hướng là bài “Hồi hướng”[27] gồm 12 câu, diễn thơ từ bài nguyên tác chữ Hán. Trong Nghi thức thọ trì thì có các bài kệ “Xưng tụng Phật bảo, xưng tụng Pháp bảo, xưng tụng Tăng bảo, quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới.”[28] Nhìn chung, ngoài Nghi thức cầu siêu ra, các Nghi thức cầu an và Nghi thức sám hối trong NTKS, có phần Hồi hướng gần giống với các NTBT, dĩ nhiên là ngắn gọn hơn. III. NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG GIỮA NTKS VỚI CÁC NTBT 1 Sử dụng cùng kinh văn và bản dịch Ba Nghi thức căn bản trong Phật giáo Bắc tông được NTKS sử dụng cộng thông bao gồm Nghi thức sám hối, Nghi thức cầu an và Nghi thức cầu siêu. Phần chính kinh của ba nghi thức nêu trên sử dụng lại bản dịch của NTBT, chẳng hạn, Hồng danh bửu sám,[29] sử dụng bản dịch tiếng Việt quen thuộc, các chính kinh còn lại đều sử dụng bản dịch của HT. Thích Huệ Đăng, bao gồm Phẩm Phổ Môn Kinh Diệu pháp liên hoa,[30] Kinh Vu-lan-bồn,[31] Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân,[32] Kinh A-di-đà.[33]Riêng Kinh Vô ngã tướng[34]sử dụng cộng thông với NTNT,[35] Nghi thức tụng niệm đại toàn,[36] cũng giống như Kinh Phật cho người tại gia,[37] Kinh Phật cho người mới bắt đầu[38] và Nghi thức tụng niệm.[39] 2 Tương đồng về phần Dẫn nhập và Hồi hướng Các yếu tố cộng thông khác được tìm thấy trong NTKS là sử dụng lại bản dịch Việt của các NTBT bao gồm i Bài “Dâng hương”[40] là bài kệ bốn câu, ba câu đầu giữ nguyên Hán Việt, câu cuối dịch ra tiếng Việt.[41] ii Sử dụng lại bài dịch của các NTBT[42] gồm có bài “Khai Kinh kệ,”[43] bài “Sám nguyện,”[44] và bài “Sám cầu siêu.”[45] iv Trong phần Hồi hướng, các mục sau đây sử dụng cộng thông với các NTBT, bao gồm Bát-nhã Tâm kinh,[46] Tán thán Phật,[47] Sám thập phương,[48] Thập nguyện,[49] Hồi hướng,[50] và Tự quy y.[51] IV. NHỮNG DỊ BIỆT GIỮA NTKS VỚI CÁC NTBT 1 Những đóng góp mới Trong NTKS, các đóng góp mới có thể được chia làm ba loại các nghi thức mới, các kệ sám mới và các kệ sám trong phần dẫn nhập và hồi hướng được dùng trong các nghi thức thuộc NTKS. i Các Nghi thức mới bao gồm a Nghi thức cúng dường[52] trong Trai hội tại gia hoặc Tịnh xá, b Nghi cúng cửu huyền,[53] c Nghi thức thọ trì tại Tịnh xá hoặc tư gia mỗi đêm.[54] ii Các bài kệ sám mới bao gồm 13 bài trong phần Kệ tụng[55] như Kệ an vị Phật, Kệ phóng sinh, Kệ thí phát, Kệ thỉnh pháp sư, Kệ cúng dâng Tịnh xá, Kệ cúng dâng Y bát, Kệ nhớ ơn Phật, Kệ cầu nguyện hòa bình, Kệ thuyền trí tuệ, Kệ chúc mừng chánh pháp, Kệ tán tụng công đức giáo chủ, Kệ nguyện về cõi Phật, Kệ khuyên đừng giết thú.[56] iii Các bài kệ trong phần dẫn nhập bao gồm Kệ dâng hương,[57] Kệ lễ Phật, lễ Pháp, lễ Tăng,[58] Hồi hướng chung,[59] Kệ xưng tụng Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo,[60] Kệ quy y Tam bảo và thọ trì ngũ giới,[61] Kệ pháp quy giới, pháp tịnh tâm,[62] Kệ sám hối Tam bảo,[63] Kệ sám hối tam nghiệp,[64] Kệ sám hối,[65] Kệ cầu nguyện chung,[66] Kệ cầu an,[67] Kệ cầu nguyện,[68] Kệ phổ nguyện,[69] Kệ cầu phước, cầu lộc,[70] Kệ cầu thọ,[71] Kệ thái bình,[72] Kệ cầu siêu,[73] Kệ giác linh tống táng,[74] và Sám từ bi.[75] 2 Về số lượng nghi thức Số lượng các nghi thức trong NTKS ít hơn so với Nghi thức tụng niệm của Phật giáo Bắc tông. Các nghi thức chính trong NTKS bao gồm Nghi thức cúng dường, Nghi cúng cửu huyền, Nghi thức cầu an, Nghi thức cầu siêu, Nghi thức sám hối. Nghi thức tụng niệm[76] trong các Chùa Bắc tông thông thường bao gồm 13 nghi thức sau đây Nghi thức Công phu khuya, Nghi thức Cúng ngọ, Nghi thức Công phu chiều, Nghi thức cầu an, Nghi thức cầu siêu, Nghi thức sám hối, Nghi thức an vị Phật, Nghi thức phóng sinh, Nghi thức thỉnh chuông, Nghi thức quy y Tam bảo, Nghi thức xuất gia, Nghi thức hôn nhân, Nghi thức Bố-tát 3 Về ngôn ngữ Nếu các NTBT có khuynh hướng sử dụng âm Hán Việt,[77] trong khi các Nghi thức Phật giáo Nguyên thủy sử dụng Pali – Việt[78] thì các nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ sử dụng tiếng Việt, chủ yếu là thi ca với các thể loại song thất lục bát chiếm đại đa số, lục bát, thất ngôn tứ tuyệt và ngũ ngôn. Nhờ sử dụng thi ca diễn dịch kinh điển và kệ tụng, NTKS dễ nhớ, dễ thuộc và dễ truyền bá.[79] Đây là điểm mạnh của Hệ phái Khất sĩ, nhờ đó, quần chúng Phật tử, nhất là giới bình dân ở miền Nam dễ dàng chấp nhận Hệ phái Khất sĩ hơn. 4 Về thần chú Nghi thức tụng niệm của Hệ phái Khất sĩ Tăng[80] không sử dụng các thần chú của Phật giáo Mật tông trong các nghi thức tụng niệm, bao gồm Chú đại bi, chú vãng sinh và các thần chú khác.[81] Nghi thức mang phong cách này ít lạc dẫn người đọc tụng theo hướng “mầu nhiệm” cầu gì được đó, vốn trái với luật nhân quả được đức Phật giảng dạy. V. VÀI NHẬN XÉT 1 Là một Hệ phái Phật giáo mới tại miền Nam, tồn tại chưa tròn 70 năm,[82] sự phát triển của Hệ phái Khất sĩ là đáng trân trọng Hơn 500 Tịnh xá và 5000 Tăng Ni trên toàn nước Việt Nam. So với Hệ phái Phật giáo Nguyên thủy Việt[83] tồn tại 76 năm 1938-2014 tại miền Nam, Hệ phái Khất sĩ phát triển nhanh hơn, phổ cập đến nhiều thành phần xã hội Việt Nam từ Quảng Trị cho đến Cà Mau. Đây có thể được xem là mô hình truyền đạo có hiệu quả đối với giới quần chúng, đáng được các sơn môn pháp phái khác ở Việt Nam tham khảo và rút kinh nghiệm, để việc nhập thế, làm đạo trong giai đoạn toàn cầu hóa được hiệu quả hơn. 2 Nhờ chủ trương sử dụng nghi thức tụng niệm thuần Việt với thể loại thơ ca Việt Nam, Hệ phái Khất sĩ đã phát triển nhanh trong cộng đồng Nam bộ. Tuy nhiên, nghi thức tụng niệm của Tăng giới và Ni giới của Hệ phái Khất sĩ vẫn chưa thống nhất, với nhiều dị biệt. Điều này phần nào làm giảm đi sức mạnh thống nhất nội bộ của Hệ phái Khất sĩ. Tôi cho rằng một khi Tăng Ni và Phật tử Hệ phái Khất sĩ đều sử dụng thống nhất một NTTN, sức mạnh nội tại của Hệ phái sẽ mạnh hơn, thuyết phục hơn và nhập thế hiệu quả hơn. 3 Trong NTKS chưa có sự phân biệt sự khác nhau giữa khái niệm “Kinh” và “Kệ”. Khuynh hướng đồng hóa khái niệm “Kệ” với “Kinh” xuất hiện trong NTKS, chẳng hạn, Kinh cúng cửu huyền,[84] Kinh cầu an,[85] Kinh cầu nguyện,[86] Kinh phổ nguyện,[87] Kinh cầu phước cầu lộc,[88] Cầu cầu thọ,[89] Kinh cầu siêu,[90] Kinh từ bi,[91] Kinh an vị Phật,[92] và Kinh Phóng sinh.[93] “Kinh” vốn chỉ cho những lời Phật dạy, trong khi “Kệ” là những bài thơ đạo của Tăng sĩ diễn giải về triết lý Phật nói chung, hoặc một khái niệm Phật học nói riêng. Do đó, trong các trường hợp nêu trên, nên đổi chữ “Kinh” thành chữ “Kệ” thì thích hợp hơn, giúp cho người đọc tụng dễ phân biệt đâu là lời Kinh Phật dạy và đâu là thi kệ của người biên soạn nghi thức, hoặc được người biên soạn tuyển chọn, đưa vào. 4 Các chính kinh trong NTKS chỉ gồm 6 bài như Kinh Phổ Môn, Kinh A-di-đà, Kinh Vu-la-bồn, Kinh báo hiếu phụ mẫu trọng ân và Kinh Vô ngã tướng, trong đó 5 bài kinh đầu thiên về Tịnh độ Tông, trong khi bài cuối cùng giới thiệu triết lý vô ngã. Đây là khuynh hướng chung của các NTBT từ trước đến nay, ngoài trừ, Nghi thức Làng Mai đại toàn và các nghi thức do Chùa Giác Ngộ xuất bản. Các bài kinh về triết học, các bài kinh về đạo đức, các kinh về xã hội và các kinh về thiền chưa được giới thiệu trong NTKS. Đây là các Kinh nên được bổ sung nhằm giúp cho giới thọ trì, đọc, tụng có thể hiểu hệ thống và toàn diện lời dạy minh triết của Phật. Sài Gòn, ngày 02 tháng 3 năm 2014 SÁCH THAM KHẢO CHỌN LỌC I. BẢN VĂN SỬ DỤNG Hệ phái Khất sĩ, Nghi thức tụng niệm, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2012. Thích Nữ Huỳnh Liên, Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo ấn bản kỳ 9 do NT Huỳnh Liên soạn, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2008. II. BẢN VĂN THAM KHẢO Hội đồng Giáo thọ Đạo tràng Mai thôn soạn dịch, Nghi thức tụng niệm đại toàn, NXB Lá Bối, Pháp, 1994, 2000. Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998. Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006. Hộ Tông tỳ khưu soạn, Kinh tụng, NXB Đông Phương, 2005. Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009. Viên Minh tỳ khưu, Kinh Nhật Hành - Pali Việt, NXB. Tôn giáo, 2011. Siêu Minh tỳ khưu, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013. Đức Hiền, Tuyển tập Kinh tụng Nam Tông, NXB. Tôn giáo, 2013. Thích Nhật Từ biên tập, Kinh tụng hằng ngày, NXB. Tôn Giáo, 2002 ấn bản thứ nhất 1994. Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013. Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012. Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [1] NTTN, 17-42. [2] NTTN, 43-75. [3] NTTN, 77-138. [4] NTTN, 3-5. [5] NTTN, 6-8. [6] NTTN, 9-16. [7] NTTN, 148-82. [8] Trong bài này, tôi sử dụng các khái niệm “dẫn nhập, chính kinh và hồi hướng” trong các nghi thức Bắc tông do tôi biên soạn, để mô tả các nội dung tương đương trong Hệ phái Khất sĩ, để độc giả dễ đối chiếu và so sánh. Tham khảo thêm i Thích Nhật Từ biên tập, Kinh tụng hằng ngày, NXB. Tôn Giáo, 2002 ấn bản thứ nhất 1994; ii Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013; iii Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012; iv Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [9] NTTN, 149. [10] NTTN, 155 Lễ cúng dâng y bát. [11] NTTN, 9, 43, 76 [12] NTTN, 9, 43, 76 [13] NTTN, 9, 43, 76 [14] NTTN, 10, 44, 77 [15] NTTN, 44, 77 [16] Nguyên văn Hán Việt “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, ngã kim kiến văn đắc thọ trì, nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.” [17] NTTN, 30-41. [18] NTTN, 55-68. [19] NTTN, 91-99. [20] NTTN, 100-116. [21] NTTN, 117-130. [22] NTTN, 142-147. [23] NTTN, 4. [24] NTTN, 6-8. [25] NTTN, 71-5. [26] NTTN, 75. [27] NTTN, 42. Đang khi trong Nghi thức cúng dường tr. 3 và Nghi thức thọ trì của NTKS bài dâng hương là một sáng tác mới, súc tích và hay “Khói hương xông thấu mấy từng xanh/ Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành/ Trên khói hương này xin Phật ngự/ Chứng minh đệ tử tấc lòng thành.” [28] NTTN, 10-13. [29] NTTN, 30-41. [30] NTTN, 55-68. [31] 91-97. [32] 100-116. [33] 117-130. [34] 143-47, do NT Huỳnh Liên diễn thơ từ bản dịch tiếng Việt của HT. Thích Minh Châu. [35] Tham khảo các quyển i Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006; ii Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009; iii Tỳ khưu Siêu Minh, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013; iv Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. [36] Hội đồng Giáo thọ Đạo tràng Mai thôn soạn dịch, Nghi thức tụng niệm đại toàn, NXB Lá Bối, Pháp, 1994, 2000. [37] Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người tại gia, NXB. Hồng Đức, 2013. [38] Thích Nhật Từ soạn dịch, Kinh Phật cho người bắt đầu, NXB. Hồng Đức, 2012. [39] Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011, tr. xx + 390. [40] NTTN, 43, 76. Nguyên văn Hán Việt là “Giới hương, định hương dữ huệ hương/ Giải thoát, giải thoát tri kiến hương/ Quang minh vân đài biến pháp giới/ Cúng dường thập phương Tam bảo tiền.” [41] Bài dâng hương của Nghi thức Khất sĩ “Giới hương, định hương dữ huệ hương/ Giải thoát, giải thoát tri kiến hương/ Quang minh vân đài biến pháp giới/ Cúng dường Tam bảo khắp mười phương.” [42] Hãy tham khảo i Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998, và Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. [43] NTTN, 45, 77. [44] NTTN, 86-8. [45] NTTN, 88-90. [46] NTTN, 71-2, 131-2. [47] NTTN, 134-5. [48] NTTN, 135-6. [49] NTTN, 73, 136-7. [50] NTTN, 73-4, 137-8. [51] NTTN, 74-5, 138. [52] NTTN, 3-5. [53] NTTN, 6-8. [54] NTTN, 9-16. [55] NTTN, 148-82. [56] Phần lớn trong NTKS gọi là Kinh, tôi đổi lại Kệ, để phân biệt đây là các bài thi kệ của chư tôn đức Khất sĩ, chứ không phải lời dạy của đức Phật như trong các Kinh. [57] NTTN, 3, 9. [58] NTTN, 3-4, 9-10, 43-4, 76-7. [59] NTTN, 8, 13. [60] NTTN, 10-11. [61] NTTN, 12-3. [62] NTTN, 14-5. [63] NTTN, 17-8. [64] NTTN, 18-23. [65] NTTN, 23-7. [66] NTTN, 28-9. [67] NTTN, 34-6. [68] NTTN, 46-7. [69] NTTN, 47-8. [70] NTTN, 48-9. [71] NTTN, 49-50 [72] NTTN, 51-4. [73] NTTN, 78-9. [74] NTTN, 79-86. [75] NTTN, 139-41. [76] Xem thêm các nghi thức sau đây để thấy sự khác biệt về phân loại, thể loại nghi thức trong các Chùa Bắc tông tại Việt Nam i Thích Thiện Thanh soạn dịch, Nghi thức tụng niệm hằng ngày của hai giới xuất gia và tại gia, Chùa Phật Tổ, Hoa Kỳ, 1998, ii Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002, và iii Thích Nhật Từ soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, NXB. Phương Đông, 2011. [77] Cụ thể như Thích Minh Thời biên tập, Kinh Nhật tụng, NXB Tôn Giáo, 2002. [78] Cụ thể như i Hộ Tông tỳ khưu soạn dịch, Kinh Nhật Hành của người tại gia tu Phật, NXB Đông Phương, 2006; ii Hộ Tông tỳ khưu soạn, Kinh tụng, NXB Đông Phương, 2005; iii Tăng Định tỳ khưu hợp soạn, Kinh Nhật Tụng của cư sĩ, NXB. Tôn giáo, 1995, 2009; iv Viên Minh, Kinh Nhật Hành - Pali Việt, NXB. Tôn giáo, 2011; v Đức Hiền, Tuyển tập Kinh tụng Nam Tông, NXB. Tôn giáo, 2013, và vi Tỳ khưu Siêu Minh, Kinh Nhật tụng Phật giáo Nguyên Thủy, NXB Tổng HCM, 2013; vii Giáo hội Tăng già Nguyên thủy Việt Nam soạn dịch, Nghi thức tụng niệm, Chùa Pháp Luân, Texas, USA, 2003. [79] Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu nghĩa cũng sử dụng thi ca để chuyển tải triết lý và truyền đạo, rất ăn khách và thành công ở miền Nam Việt Nam. [80] Nghi thức tụng niệm Ni thường gọi là Kinh Tam bảo và Kinh xưng tụng Tam bảo tr. V do NT. Huỳnh Liên biên soạn vẫn sử dụng thần chú đại bi, như phần lớn các nghi thức tụng niệm của các trường phái Phật giáo Bắc tông khác. [81] Hơn 20 quyển nghi thức do tôi biên soạn quan trọng nhất là Kinh tụng hằng ngày, Kinh Phật cho người tại gia, Kinh Phật cho người bắt đầu và Nghi thức tụng niệm không sử dụng các thần chú Mật tông. [82] Năm 2014, lãnh đạo Hệ phái Khất sĩ tưởng niệm 60 năm ngày vắng bóng Tổ sư Minh Đăng Quang, người khai sáng Hệ phái Khất sĩ. Hội thảo này là một phần trong các chương trình tưởng niệm. [83] Khái niệm nhân học này nhằm chỉ cho Hệ phái Theravada của người Việt, vốn phân biệt với Phật giáo Nam tông Khmer của các nhà sư Campuchia tại miền Nam Việt Nam. Theravada Việt vốn tiếp nhận và chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Theravada từ Tích Lan, mặc dù trong giai đoạn thành lập Theravada tại Sài Gòn, Hòa thượng Hộ Tông, nguyên là Tăng thống của phái này, chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Campuchia. [84] NTTN, 6-8. [85] NTTN, 45-6. [86] NTTN, 46. [87] NTTN, 47-8. [88] NTTN, 48-9. [89] NTTN, 49-50. [90] NTTN, 78-9. [91] NTTN, 139-41, do NT. Huỳnh Liên sáng tác. [92] NTTN, 148-9. [93] NTTN, 149-50.

hệ phái khất sĩ là gì